Thi Thiên 54:1-7.

(Thi 54:1-7) "1 Đức Chúa Trời ôi! xin hãy lấy danh Chúa mà cứu tôi, Dùng quyền năng Chúa mà xét tôi công bình. 2 Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi, Lắng tai nghe các lời của miệng tôi, 3 Vì người lạ dấy nghịch cùng tôi, Người hung bạo tìm hại mạng sống tôi: Chúng nó không để Đức Chúa Trời đứng trước mặt mình. 4 Nầy, Đức Chúa Trời là sự tiếp trợ tôi, Chúa là Đấng nâng đỡ linh hồn tôi. 5 Ngài sẽ báo ác cho những kẻ thù nghịch tôi: Xin hãy diệt chúng nó đi, tùy sự chân thật Chúa. 6 Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi sẽ dâng cho Ngài của lễ tình nguyện, Cũng sẽ cảm tạ danh Ngài, vì điều đó là tốt lành. 7 Vì Ngài giải cứu tôi khỏi mọi mỗi gian truân; Mắt tôi thấy sự báo trả cho kẻ thù nghịch tôi".

LỜI MỞ:


1. Đây là lời cầu nguyện của Đa vít, ông xin Đức Chúa Trời giải cứu khỏi kẻ thù tìm cách giết ông. Cũng giống như các Thi thiên 3,4 và 13. Thi thiên 54 là  một lời cầu nguyện ngắn (the short prayer).


2. Thi thiên 54 được sáng tác (framed) dựa trên lời cầu nguyện mà Đa vít đã xin Đức Chúa Trời xét lẽ công bình cho ông.
(Thi 54:1) "Đức Chúa Trời ôi! xin hãy lấy danh Chúa mà cứu tôi, Dùng quyền năng Chúa mà xét tôi công bình".

3. Có lẽ Đa vít đã sáng tác Thi thiên nầy trong lúc ông chạy trốn khỏi sự truy bắt của vua Sau lơ; nhưng lại bị dân Xíp (Ziphites) phát hiện và tìm cách chỉ điểm cho vua Sau lơ đến bắt ông (I Sam 23:15-23).
(I Sam 23:19) "Dân Xíp đi lên cùng Sau-lơ tại Ghi-bê-a, mà nói rằng: Đa-vít ẩn giữa chúng tôi, tại nơi đồn trong rừng, trên gò Ha-ki-la, ở về phía nam của đồng vắng".


I. THẾ GIAN KHÔNG YÊU BẠN (the world does not love you):


1. Trong lúc chạy trốn khỏi sự truy bắt của Sau lơ, Đa vít đã đến ẩn mình tại một đồn trong rừng, trên gò Kê i la (Keilah), về phía Nam của đồng vắng thuộc về xứ Xíp (Ziph).
(I Sam 23:15) "Đa-vít thấy Sau-lơ đã kéo ra đặng hại mạng sống mình, thì ở lại trong rừng của đồng vắng Xíp".

2. Đa vít đã không gây phiền hà hay rắc rối gì cho dân cư thành Xíp (David had not bothered the Ziphiites). Nhưng họ lại thù địch và chống lại Đa vít. Họ làm vậy nhằm mục đich nịnh bợ và lấy lòng Sau lơ (yet they turned against him to win favour with King Saul).

3. Ngày hôm nay, thế gian cũng không yêu thương gì dân sự của Đức Chúa Trời, ngay cả đến những ngươi xa lạ (even strangers) cũng tạo những khó khăn cho dân sự của Ngài.
(Thi 54:3) "Vì người lạ dấy nghịch cùng tôi, Người hung bạo tìm hại mạng sống tôi: Chúng nó không để Đức Chúa Trời đứng trước mặt mình".

(1) Người lạ זוּר [zuwr] (stranger): Người xa lạ, người không quen biết.
(a) Nghĩa nguyên thủy: Quay sang bên khác (turn aside).
(b) Nghĩa đen: Một người ngoại quốc (a foreigner). Một người lạ (a strange). Một người ngoại đạo (a profane).
(c) Nghĩa bóng: Lạ (strange).
+ Hương lạ / lửa lạ. Cái gì đó ở ngoài quy định trong luật pháp của Đức Chúa Trời (something outside the law of God).
(Xuất 30:9) "Trên bàn thờ nầy chớ xông hương lạ, hoặc dâng của lễ thiêu, của lễ chay hay là lễ quán nào hết".
(Lê 10:1) "Hai con trai A-rôn, Na-đáp và A-bi-hu, mỗi người đều cầm lư hương mình, để lửa vào, bỏ hương lên và dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giê-hô-va; ấy là điều Ngài không phán dặn họ".
+ Người ngoài (lạ). Một người ngoài gia đình (a person outside the family).
(Phục 25:5) "Khi anh em ruột ở chung nhau, có một người chết không con, thì vợ của người chết chớ kết đôi cùng người ngoài; anh em chồng phải đi đến cùng nàng, cưới nàng làm vợ, y theo bổn phận của anh em chồng vậy".
+ Khách lạ hoặc người ngoại quốc (stranger / foreigner).
(Gióp 19:15) "Những kẻ ở trong nhà tôi, và các tớ gái tôi đãi tôi như một khách lạ, Trước mặt chúng, tôi đã trở thành một người ngoài".
(Thi 54:3) "Vì người lạ dấy nghịch cùng tôi, Người hung bạo tìm hại mạng sống tôi: Chúng nó không để Đức Chúa Trời đứng trước mặt mình".

(2) Người hung bạo עָרִיץ [`âriyts] (oppressor): Kẻ áp bức, kẻ đàn áp.
* Cai trị hoặc đối xử một cách khắc nghiệt hoặc bất công cách độc ác (govern or treat harshly or with cruel injustice).
(a) Nghĩa nguyên thủy: Khiếp sợ (dread); quấy rối (harass).
(b) Nghĩa đen: Có quyền thế lớn (powerful); bạo ngược, chuyên chế (tyrannical).
(c) Nghĩa bóng: Người hung bạo (oppressor); người hung dữ (violent man); Kẻ tàn nhẫn (ruthless man).
(Thi 18:48) "Ngài giải cứu tôi khỏi kẻ thù nghịch tôi; Thật Chúa nâng tôi lên cao hơn kẻ dấy nghịch cùng tôi. Và cứu tôi khỏi người hung bạo".
(Thi 140:1) "Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy giải cứu tôi khỏi kẻ ác, Bảo hộ tôi khỏi người hung bạo".
(Thi 140:4) "Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy giữ tôi khỏi tay kẻ ác, Bảo hộ tôi khỏi người hung bạo, Là kẻ toan mưu làm bước tôi vấp ngã".
(Thi 140:11) "Người nào có lưỡi gian trá chẳng được vững lập trong xứ; Tai họa sẽ đuổi theo kẻ hung bạo đặng đánh đổ hắn".
(Thi 54:3) "Vì người lạ dấy nghịch cùng tôi, Người hung bạo tìm hại mạng sống tôi: Chúng nó không để Đức Chúa Trời đứng trước mặt mình".

4. Khi nào ở trong hoàn cảnh bị người đời "dấy nghịch" và "tìm hại mạng sống" thì hãy làm điều mà Đa vít đã làm (do what David did) sau đây:


II. HÃY CẦU NGUYỆN KHI GẶP HOẠN NẠN:


(Thi 54:2) "Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi, Lắng tai nghe các lời của miệng tôi".


1. Cầu nguyện תְּפִלָּה [tĕphillâh] (pray): Cầu khẩn, thỉnh cầu.
* Một lời cầu khẩn trang nghiêm dâng lên Đức Chúa Trời (a solemn request to God).


(1) Nghĩa nguyên thủy: Van xin, năn nỉ (make supplication).
(II Sam 7:27) "Vả lại, hỡi Giê-hô-va vạn quân! là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, chính Chúa đã phán lời hứa nầy cùng kẻ tôi tớ Chúa rằng: Ta sẽ dựng nhà cho ngươi. Bởi cớ đó, kẻ tôi tớ Chúa nói dạn dĩ mà cầu xin Chúa mấy lời nầy".
(I Vua 8:38) "nếu có một người hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, ai nấy đã nhận biết tai họa của lòng mình, mà giơ tay ra hướng về đền này, và cầu nguyện, khẩn xin vô luận điều gì".
(II Sử 6:29) "ví bằng có một người, hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa đã nhận biết tai vạ và sự đau đớn của mình, mà giơ tay ra hướng về nhà này, cầu nguyện và khẩn xin vô luận điều gì".
(II Vua 19:4) "4 Có lẽ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe các lời của Ráp-sa-kê, mà vua A-si-ri, chủ hắn, đã sai đến đặng phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ quở phạt các lời Ngài đã nghe. Vậy, xin hãy cầu nguyện giùm cho những kẻ còn sống".
(Giê 7:16) "Cho nên ngươi chớ vì dân nầy mà cầu thay; đừng vì nó mà cất tiếng khấn vái cầu nguyện, cũng đừng cầu thay cùng ta, vì ta sẽ chẳng nghe ngươi".

(2) Nghĩa đen: Lời cầu xin, lời yêu cầu khẩn thiết (plea).
(Thi 4:1) "Hỡi Đức Chúa Trời của sự công bình tôi, Khi tôi kêu cầu, xin hãy đáp lời tôi. Khi tôi bị gian truân Ngài để tôi trong nơi rộng rãi; Xin hãy thương xót tôi, và nghe lời cầu nguyện tôi".
(Thi 5:1) "Hỡi Đức Giê-hô-va, xin lắng tai nghe lời tôi, Xem xét sự suy gẫm tôi".
(Thi 55:1) "Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy lắng tai nghe lời cầu nguyện tôi, Chớ ẩn mặt Chúa cho khỏi nghe lời nài xin tôi".

2. Cầu xin Đức Chúa Trời giải quyết (prayer for God to take charge):
(Thi 17:1) "Đức Giê-hô-va ôi! xin hãy nghe sự công chánh, để ý về tiếng kêu của tôi; Xin hãy lắng tai nghe lời cầu nguyện tôi ra bởi môi không giả dối".

3. Cầu xin Đức Chúa Trời bảo vệ bạn (prayer for God to protect you):
(Thi 54:4) "Nầy, Đức Chúa Trời là sự tiếp trợ tôi, Chúa là Đấng nâng đỡ linh hồn tôi".

4. Cầu xin Đức Chúa Trời minh oan và báo thù thay cho bạn (prayer for God to vindicate you against your enemies):
(Thi 54:5) "Ngài sẽ báo ác cho những kẻ thù nghịch tôi: Xin hãy diệt chúng nó đi, tùy sự chân thật Chúa".
(Thi 94:23) "Ngài làm cho sự gian ác chúng nó đổ lại trên chúng nó, Và diệt chúng nó trong sự hung dữ chúng nó; Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi sẽ diệt chúng nó".


III. HÃY NGỢI KHEN CHÚA KHI NGÀI ĐÁP LỜI (when the answer comes, be sure you take time to praise the Lord).


(Thi 54:6-7) "6 Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi sẽ dâng cho Ngài của lễ tình nguyện, Cũng sẽ cảm tạ danh Ngài, vì điều đó là tốt lành. 7 Vì Ngài giải cứu tôi khỏi mọi mỗi gian truân; Mắt tôi thấy sự báo trả cho kẻ thù nghịch tôi".


1. Cảm tạ יָדָה [yâdâh] (praise): Ca ngợi, ca tụng, ngợi khen, tán tụng, tán dương.
* Biểu lộ sự đồng tình hoặc thán phục (Express warm approval or admiration)
* Suy tôn Đức Chúa Trời bằng lời nói (glorify God in words).
* Dâng lời tạ ơn (to give thanks).
(I Sử 16:34) "Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là nhân từ; Sự thương xót Ngài còn đến đời đời".
(I Sử 23:30) "mỗi buổi sớm và buổi chiều, họ phải đứng tại đó cảm tạ và ngợi khen Đức Giê-hô-va".
(Ê xơ 3:11) "Chúng ca hát đối đáp mà ngợi khen cảm tạ Đức Giê-hô-va rằng: Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì Ngài là tốt lành, lòng thương xót của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên còn đến đời đời! Cả dân sự đều kêu reo tiếng lớn, ngợi khen Đức Giê-hô-va, bởi vì người ta xây nền đền thờ của Đức Giê-hô-va".
(Nê 12:24) "Các trưởng tộc của người Lê-vi: Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, và Giê-sua, con trai của Cát-mi-ên, và các anh em người ứng đối nhau, từng ban từng thứ, đặng ngợi khen và cảm tạ, tùy theo lịnh của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời".

2. Đa vít đã ngợi khen Đức Chúa Trời khi được Ngài nhận lời cầu nguyện.
(Thi 44:7-8) "7 Nhưng Chúa đã cứu chúng tôi khỏi cừu địch chúng tôi, Làm bỉ mặt những kẻ ghen ghét chúng tôi. 8 Hằng ngày chúng tôi đã khoe mình về Đức Chúa Trời, Lại sẽ cảm tạ danh Chúa đến đời đời".
(Thi 69:29-30) "29 Còn tôi bị khốn cùng và đau đớn: Đức Chúa Trời ơn, nguyện sự cứu rỗi của Chúa nâng đỡ tôi lên nơi cao. 30 Tôi sẽ dùng bài hát mà ngợi khen danh Đức Chúa Trời, Và lấy sự cảm tạ mà tôn cao Ngài".
(Thi 142:6-7) "6 Xin Chúa lắng nghe tiếng tôi, Vì tôi bị khốn khổ vô cùng; Xin hãy cứu tôi khỏi kẻ bắt bớ tôi, Vì chúng nó mạnh hơn tôi. 7 Xin hãy rút linh hồn tôi khỏi ngục khám, Để tôi cảm tạ danh Chúa. Những người công bình sẽ vây quanh tôi, Bởi vì Chúa làm ơn cho tôi".


Mục Sư Trương Hoàng Ứng