(Thi 78:1-72) "1 Hỡi dân sự ta, hãy lắng tai nghe luật pháp ta; Hãy nghiêng tai qua nghe lời của miệng ta. 2 Ta sẽ mở miệng ra nói thí dụ, Bày ra những câu đố của đời xưa, 3 Mà chúng ta đã nghe biết, Và tổ phụ chúng ta đã thuật lại cho chúng ta. 4 Chúng ta sẽ chẳng giấu các điều ấy cùng con cháu họ, Bèn sẽ thuật lại cho dòng dõi hậu lai những sự ngợi khen Đức Giê-hô-va, Quyền năng Ngài, và công việc lạ lùng mà Ngài đã làm. 5 Ngài đã lập chứng cớ nơi Gia-cốp, Định luật pháp trong Y-sơ-ra-ên, Truyền dặn tổ phụ chúng ta phải dạy nó lại cho con cháu mình; 6 Hầu cho dòng dõi hậu lai, tức là con cái sẽ sanh, Được biết những điều đó, Rồi phiên chúng nó truyền lại cho con cháu mình; 7 Hầu cho chúng nó để lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời, Không hề quên các công việc Ngài, Song gìn giữ các điều răn của Ngài, 8 Để chúng nó chẳng như tổ phụ mình, Là một dòng dõi cố chấp phản nghịch, Chẳng dọn lòng cho chánh đáng, Có tâm thần không trung tín cùng Đức Chúa Trời. 9 Con cháu Ép-ra-im cầm binh khí và giương cung, Có xây lưng lại trong ngày chiến trận. 10 Chúng nó không gìn giữ giao ước của Đức Chúa Trời, Cũng không chịu đi theo luật pháp Ngài, 11 Quên những việc làm của Ngài, Và các công tác lạ lùng mà Ngài đã tỏ cho chúng nó thấy. 12 Tại trong xứ Ê-díp-tô, nơi đồng bằng Xô-an, Ngài làm những phép lạ trước mặt tổ phụ chúng nó. 13 Ngài rẽ biển ra, làm cho họ đi ngang qua, Khiến nước dựng lên như một đống. 14 Ngài dẫn dắt họ, ban ngày bằng áng mây, Trọn ban đêm bằng ánh sáng lửa. 15 Ngài bửa hòn đá ra trong đồng vắng, Ban cho họ uống nước nhiều như từ vực sâu ra. 16 Ngài cũng khiến suối từ hòn đá phun ra, Và làm cho nước chảy ra như sông. 17 Dầu vậy, họ cứ phạm tội cùng Ngài, Phản nghịch cùng Đấng Chí cao trong đồng vắng. 18 Trong lòng họ thử Đức Chúa Trời, Mà cầu xin đồ ăn theo tình dục mình. 19 Họ nói nghịch cùng Đức Chúa Trời, Mà rằng: Đức Chúa Trời há có thể dọn bàn nơi đồng vắng sao? 20 Kìa, Ngài đã đập hòn đá, nước bèn phun ra, Dòng chảy tràn; Ngài há cũng có thể ban bánh sao? Ngài há sẽ sắm sửa thịt cho dân Ngài ư? 21 Vì vậy Đức Giê-hô-va có nghe bèn nổi giận; Có lửa cháy nghịch cùng Gia-cốp, Sự giận nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên; 22 Bởi vì chúng nó không tin Đức Chúa Trời, Cũng chẳng nhờ cậy sự cứu rỗi của Ngài. 23 Dầu vậy, Ngài khiến các từng mây trên cao, Và mở các cửa trời, 24 Cho mưa ma-na xuống trên họ đặng ăn, Và ban cho lúa mì từ trên trời. 25 Người ta ăn bánh của kẻ mạnh dạn; Ngài gởi cho họ đồ ăn đầy đủ. 26 Ngài khiến gió đông thổi trên trời, Nhờ quyền năng mình Ngài dẫn gió nam. 27 Ngài khiến mưa thịt trên chúng nó như bụi tro, Và chim có cánh cũng nhiều như cát biển; 28 Ngài làm các vật đó sa xuống giữa trại quân, Khắp xung quanh nơi ở chúng nó. 29 Như vậy chúng nó ăn, được no nê chán lán, Ngài ban cho chúng nó điều chúng nó ước ao. 30 Chúng nó chưa xây khỏi điều mình ước ao, Vật thực hãy còn trong miệng chúng nó, 31 Bèn có cơn giận của Đức Chúa Trời nổi lên cùng chúng nó, Giết những kẻ béo hơn hết, Đánh hạ những người trai trẻ của Y-sơ-ra-ên. 32 Mặc dầu các sự ấy, chúng nó còn phạm tội, Không tin các công việc lạ lùng của Ngài. 33 Vì cớ ấy Ngài làm cho các ngày chúng nó tan ra hư không, Dùng sự kinh khiếp làm tiêu các năm chúng nó. 34 Khi Ngài đánh giết chúng nó, chúng nó bèn cầu hỏi Ngài, Trở lại tìm cầu Đức Chúa Trời cách sốt sắng. 35 Chúng nó bèn nhớ lại rằng Đức Chúa Trời là hòn đá của mình, Đức Chúa Trời Chí cao là Đấng cứu chuộc mình. 36 Nhưng chúng nó lấy miệng dua nịnh Ngài, Dùng lưỡi mình nói dối với Ngài. 37 Vì lòng chúng nó chẳng khắn khít cùng Ngài, Chúng nó cũng không trung tín trong sự giao ước Ngài. 38 Nhưng Ngài, vì lòng thương xót, tha tội ác cho, chẳng hủy diệt chúng nó: Thật, nhiều khi Ngài xây cơn giận Ngài khỏi, chẳng nổi giận đến cực kỳ. 39 Ngài nhớ lại chúng nó chẳng qua là xác thịt, Một hơi thở qua, rồi không trở lại. 40 Biết mấy lần chúng nó phản nghịch cùng Ngài nơi đồng vắng, Và làm phiền Ngài trong chỗ vắng vẻ! 41 Chúng nó lại thử Đức Chúa Trời, Trêu chọc Đấng thánh của Y-sơ-ra-ên. 42 Chúng nó không nhớ lại tay của Ngài, Hoặc ngày Ngài giải cứu chúng nó khỏi kẻ hà hiếp; 43 Thể nào Ngài đặt các dấu lạ mình tại Ê-díp-tô, Và những phép kỳ mình trong đồng Xô-an; 44 Đổi ra huyết các sông Và các dòng nước chúng nó, đến đỗi không thế uống được. 45 Ngài sai muỗi cắn nuốt họ, Và ếch làm hại chúng nó; 46 Cũng phó hoa lợi chúng nó cho châu chấu, Nộp bông trái công lao họ cho cào cào. 47 Ngài phá vườn nho chúng nó bằng mưa đá, Hủy cây sung họ bằng tuyết giá; 48 Cũng phó trâu bò chúng nó cho mưa đá, Và nộp bầy chiên họ cho sấm sét. 49 Ngài thả nghịch chúng nó cơn giận dữ Ngài, Sự thạnh nộ, sự nóng nả, và gian truân, Tức là một lũ sứ tai họa. 50 Ngài mở lối cho cơn giận Ngài, Chẳng dong thứ linh hồn họ khỏi chết, Bèn phó mạng sống chúng nó cho dịch hạch; 51 Cũng đánh giết mọi con đầu lòng trong Ê-díp-tô, Tức là cường-tráng sanh đầu ở trong các trại Cham. 52 Đoạn Ngài đem dân sự Ngài ra như con chiên. Dẫn dắt họ trong đồng vắng như một bầy chiên. 53 Ngài dẫn chúng nó bình an vô sự, chúng nó chẳng sợ chi: Còn biển lấp lại những kẻ thù nghịch họ. 54 Ngài đưa họ đến bờ cõi thánh Ngài, Tức đến núi mà tay hữu Ngài đã được. 55 Ngài cũng đuổi các dân khỏi trước mặt chúng nó, Bắt thăm và chia xứ làm sản nghiệp cho họ, Khiến các chi phái Y-sơ-ra-ên ở trong trại của các dân ấy. 56 Dầu vậy, chúng nó thử và phản nghịch Đức Chúa Trời Chí cao, Không giữ các chứng cớ của Ngài; 57 Nhưng trở lòng, ở bất trung như các tổ phụ mình: Chúng nó sịa như cây cung sai lệch. 58 Nhân vì các nơi cao, chúng nó chọc giận Ngài, Giục Ngài phân bì tại vì những tượng chạm. 59 Khi Đức Chúa Trời nghe điều ấy, bèn nổi giận, Gớm ghiếc Y-sơ-ra-ên quá đỗi; 60 Đến nỗi bỏ đền tạm tại Si-lô, Tức là trại Ngài đã dựng giữa loài người; 61 Phó sức lực Ngài bị dẫn tù, Và nộp vinh hiển Ngài vào tay cừu địch. 62 Ngài cũng phó dân sự Ngài cho bị thanh gươm, Và nổi giận cùng cơ nghiệp mình. 63 Lửa thiêu nuốt những gã trai trẻ họ, Còn các nữ đồng trinh không có ai hát nghinh thú. 64 Những thầy tế lễ họ bị gươm sa ngã, Song các người góa bụa không than khóc. 65 Bấy giờ Chúa tỉnh thức như người khỏi giấc ngủ, Khác nào kẻ mạnh dạn reo la vì cớ rượu. 66 Ngài hãm đánh những kẻ cừu địch lui lại, Làm cho chúng nó bị sỉ nhục đời đời. 67 Vả lại, Ngài từ chối trại Giô-sép, Cũng chẳng chọn chi phái Ép-ra-im; 68 Bèn chọn chi phái Giu-đa, Là núi Si-ôn mà Ngài yêu mến. 69 Ngài xây đền thánh Ngài giống như nơi rất cao, Khác nào trái đất mà Ngài đã sáng lập đời đời. 70 Ngài cũng chọn Đa-vít là tôi tớ Ngài, Bắt người từ các chuồng chiên: 71 Ngài đem người khỏi bên các chiên cho bú, Đặng người chăn giữ Gia-cốp, là dân sự Ngài, Và Y-sơ-ra-ên, là cơ nghiệp Ngài. 72 Như vậy, người chăn giữ họ theo sự thanh liêm lòng người, Và lấy sự khôn khéo tay mình mà dẫn dắt họ.

 

DẪN NHẬP.

 

1/ Rất nhiều người tin rằng A sáp A sáp אָסָף  ['Âcâph] (Asaph) là tác giả của Thi Thiên 78 (the Psalm is ascribed to Asaph), ông là người chỉ huy của một trong các ca đoàn thuộc về người Lê vi của vua Đa vít (leader of one of David's Levitical choirs).

Các Thi thiên do A sáp sáng tác bao gồm: Thi thiên 50 và các Thi thiên khác từ Thi thiên 73 đến Thi thiên 83.

Tuy nhiên, nhiều người khác lại tin rằng Thi thiên 78 là do các con cháu của A sáp (descendants of Asaph) sáng tác. Họ là những người đã kế thừa chức vụ của A sáp (who functioned in his place).

Thi thiên 78 được sáng tác vào thời kỳ vương quốc Do thái bị chia đôi (the period of the divided monarchy) và có lẽ cùng thời gian với Tiên tri Ô sê (the time of the Prophet Hosea) thi hành chức vụ.

Tiên tri Ô sê và Thi thiên 78 đều gọi Vương quốc phía Bắc Y sơ ra ên là Ép ra im; vì Ép ra im là chi phái thống trị của Vương quốc nầy (Hosea speaks frequently of the northern Kingdom as Ephraim since it was the dominant tribe of that realm).

(Ô sê 4:17) "Ép-ra-im sa mê thần tượng, hãy để mặc nó!".

(Ô sê 5:9) "Ép-ra-im sẽ nên hoang vu trong ngày quở trách; ta rao ra cho các chi phái Y-sơ-ra-ên một sự chắc sẽ xảy đến".

(Ô sê 5:11-14) "11 Ép-ra-im bị hà hiếp, bị nghiền nát trong sự đoán xét, vì nó đã bằng lòng theo điều răn của loài người. 12 Vậy nên, ta giống như con mọt cho Ép-ra-im, và như sự mục nát cho nhà Giu-đa. 13 Khi Ép-ra-im đã biết bịnh mình, và Giu-đa đã biết vết thương mình, thì Ép-ra-im đi đến cùng người A-si-ri, và sai đến cùng vua Gia-rép. Nhưng nó không thể chữa lành các ngươi, và không buộc vết thương cho các ngươi. 14 Vì ta sẽ như một con sư tử cho Ép-ra-im, như một sư tử con cho nhà Giu-đa. Thật, chính ta, chính ta sẽ cắn xé rồi đi luôn; ta sẽ bắt đem đi và chẳng ai có thể giải cứu".

(Thi 78:9) "Con cháu Ép-ra-im cầm binh khí và giương cung, Có xây lưng lại trong ngày chiến trận".

(Thi 78:67-68) "67 Vả lại, Ngài từ chối trại Giô-sép, Cũng chẳng chọn chi phái Ép-ra-im; 68 Bèn chọn chi phái Giu-đa, Là núi Si-ôn mà Ngài yêu mến".

(II Vua 17:15-18) "15 Chúng khinh bỏ các luật lệ và giao ước Ngài đã lập cùng tổ phụ họ, và những lời chứng mà Ngài đã phán với họ. Chúng đi theo các thần hư không, và trở thành hư không, bắt chước các dân tộc ở chung quanh mình, mà Đức Giê-hô-va đã cấm làm theo gương của chúng nó. 16 Chúng khinh bỏ hết thảy giới mạnh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, tự đúc lấy hai tượng bò con, cùng làm thần tượng A-sê-ra, thờ lạy hết thảy cơ binh trên trời, và thờ phượng Ba-anh. 17 Chúng cũng đưa con trai con gái mình qua lửa, dùng tà thuật, tin bói khoa, chuyên làm điều dữ trước mặt Đức Giê-hô-va, để chọc giận Ngài. 18 Bởi cớ ấy, Đức Giê-hô-va rất nổi giận dữ cùng dân Y-sơ-ra-ên, xua đùa chúng khỏi trước mặt Ngài; chỉ còn lại chi phái Giu-đa mà thôi".

 

2/ Thi thiên 78 ghi lại những sự suy xét về những việc mà Đức Chúa Trời đã làm cho dân sự Ngài trong quá khứ; đây là một trong những bài ca vĩ đại về lịch sử dân Y sơ ra ên, nó đã đem lại cho tác giả sự an ủi khi ông đang ở trong một thời điểm của sự khốn khổ lớn (comforting reflections in a time of great distress).

* Mục đích của Thi thiên 78 là dạy chúng ta phải biết rút ra những bài học đau thương từ lịch sử Y sơ ra ên, để không bị buộc phải sống lại cảnh ấy.

* Bellett đã tóm tắt sứ điệp của Thi Thiên 78 là "Những đường lối của Chúa trong ân điển, và những đường lối của dân Y sơ ra ên trong bại hoại".

 

3/ Thi Thiên 78 là một lời chỉ dẫn (a psalm of instruction) của những lời cảnh cáo rằng:

* Đừng lập lại các tội lỗi của dân Y sơ ra ên trong quá khứ (not to repeat Israel's sins of the past).

* Nhưng phải nhớ đến các hành động cứu vớt cùng ân điển bền bỉ cách phi thường của của Đức Chúa Trời (but to remember God's saving acts and marvellously persistent grace).

* Cũng phải nhớ giữ đức tin với Đức Chúa Trời và với giao ước của Ngài (and remembering, to keep faith with Him and His covenant).

 

I/ THI THIÊN 78 ĐIỂM LẠI (this long psalm reviews).

 

1/ Lịch sử của dân Y sơ ra ên (the history of Israel).

* Sự xuất hành (the Exodus) (77:12-16;42-53).

* Sự lưu lạc trong đồng vắng (their wilderness journey) (77:17-41).

* Sự chinh phục xứ Ca na an (the conquest of Canaan) (77:54-55).

* Sự kỷ luật của Đức Chúa Trời (disciplines God sent them there) (77:56-64).

 

2/ Một lịch sử thật sự của quốc gia (a nation's true history) là một văn bản

không những chỉ ghi chép cách thức mà dân sự đối xử lẫn nhau (how the people treated one another); nhưng cũng ghi chép cách mà dân sự đã đối xử với Đức Chúa Trời (but of how they treated God).

 

II/ TẠI SAO CẦN CÓ BÀI HỌC LỊCH SỬ DÀI NHƯ VẬY? (But why the long history lesson?).

 

1/ Bởi vì các thế hệ nối tiếp cần phải noi theo (for the sake of the generation to follow) (78:1-8).

(Thi 78:2-7) "2 Ta sẽ mở miệng ra nói thí dụ, Bày ra những câu đố của đời xưa, 3 Mà chúng ta đã nghe biết, Và tổ phụ chúng ta đã thuật lại cho chúng ta. 4 Chúng ta sẽ chẳng giấu các điều ấy cùng con cháu họ, Bèn sẽ thuật lại cho dòng dõi hậu lai những sự ngợi khen Đức Giê-hô-va, Quyền năng Ngài, và công việc lạ lùng mà Ngài đã làm 5 Ngài đã lập chứng cớ nơi Gia-cốp, Định luật pháp trong Y-sơ-ra-ên, Truyền dặn tổ phụ chúng ta phải dạy nó lại cho con cháu mình; 6 Hầu cho dòng dõi hậu lai, tức là con cái sẽ sanh, Được biết những điều đó, Rồi phiên chúng nó truyền lại cho con cháu mình; 7 Hầu cho chúng nó để lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời, Không hề quên các công việc Ngài, Song gìn giữ các điều răn của Ngài. 8 Để chúng nó chẳng như tổ phụ mình, Là một dòng dõi cố chấp phản nghịch, Chẳng dọn lòng cho chánh đáng, Có tâm thần không trung tín cùng Đức Chúa Trời".

 

(1) Người Do thái được truyền lịnh phải dạy cho các con cháu của mình các công việc và các đường lối của Chúa (to teach their children the works and ways of the Lord).

(Thi 78:3-6) "3... tổ phụ chúng ta đã thuật lại cho chúng ta. 4 Chúng ta sẽ chẳng giấu các điều ấy cùng con cháu họ, Bèn sẽ thuật lại cho dòng dõi hậu lai... 5 Truyền dặn tổ phụ chúng ta phải dạy nó lại cho con cháu mình... 6 Rồi phiên chúng nó truyền lại cho con cháu mình".

(Phục 6:6-9) "6 Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; 7 khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi và phải nói đến, hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chổi dậy. 8 Khá buộc nó trên tay mình như một dấu, và nó sẽ ở giữa hai con mắt ngươi như ấn chí; 9 cũng phải viết các lời đó trên cột nhà, và trên cửa ngươi".

 

(2) Nhờ đó mà mỗi thế hệ sẽ biết Chúa và tin cậy Ngài (each generation would know the Lord and trust Him).

(Thi 78:6-8) "6 Hầu cho dòng dõi hậu lai, tức là con cái sẽ sanh, Được biết những điều đó... 7 Hầu cho chúng nó để lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời, Không hề quên các công việc Ngài, Song gìn giữ các điều răn của Ngài. 8 Để chúng nó chẳng như tổ phụ mình, Là một dòng dõi cố chấp phản nghịch, Chẳng dọn lòng cho chánh đáng, Có tâm thần không trung tín cùng Đức Chúa Trời".

 

2/ Thuật lại סָפַר [câphar] (tell / declare / show): Tuyên bố, trình bày, bộc bạch, khai báo, tỏ ra, bày tỏ, kể, nói ra, nói cho biết.

(Thi 78:3b-4a) "tổ phụ chúng ta đã thuật lại cho chúng ta. 4 Chúng ta sẽ chẳng giấu các điều ấy cùng con cháu họ, Bèn sẽ thuật lại cho dòng dõi hậu lai".

(1) Nghĩa nguyên thủy: Rạch, khía, đánh dấu (score); ghi chép (record).

(2) Nghĩa đen: Thuật lại (relate); công bố, tuyên bố (declare); kể lại (recount).

* Chính thức thông báo cái gì cách rõ ràng (announce openly or formally).

(Xuất 9:16) "Nhưng vì cớ nầy ta để ngươi còn sống, là cho ngươi thấy quyền năng của ta, hầu cho danh ta đồn khắp cả thiên hạ".

(I Sử 16:24) "Trong các nước hãy thuật sự vinh hiển của Ngài; Tại muôn dân khá kể những công việc mầu của Ngài".

(Thi 75:1c) "Người ta thuật lại công việc lạ lùng của Chúa".

(Thi 75:9a) "Song tôi sẽ thuật lại các điều đó luôn luôn".

(Thi 78:4,6) "4 Chúng ta sẽ chẳng giấu các điều ấy cùng con cháu họ, Bèn sẽ thuật lại cho dòng dõi hậu lai những sự ngợi khen Đức Giê-hô-va, Quyền năng Ngài, và công việc lạ lùng mà Ngài đã làm... 6 Hầu cho dòng dõi hậu lai, tức là con cái sẽ sanh, Được biết những điều đó, Rồi phiên chúng nó truyền lại cho con cháu mình".

(Thi 79:13) "Còn chúng tôi là dân sự Chúa, và là bầy chiên của đồng cỏ Chúa, Chúng tôi sẽ cảm tạ Chúa mãi mãi; Từ đời nầy qua đời kia chúng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa".

(Thi 96:3) "Hãy thuật sự vinh hiển Ngài giữa các nước, Truyền các công việc lạ lùng Ngài giữa các dân".

 

3/ Ngày nay, chúng ta cũng có cùng một bổn phận như vậy (we have the same obligations today). Hãy dạy các con cháu mình về Đức Chúa Trời và lời Ngài.

 

4/ Khi dân Y sơ ra ên không dạy dỗ các con cháu mình lời Chúa (stopped doing this), thì quốc gia nầy đã từ bỏ Chúa (forsook the Lord) và Đức Chúa Trời cũng đã phải kỷ luật họ (God had to chasten them).

(Thi 78:10-11) "10 Chúng nó không gìn giữ giao ước của Đức Chúa Trời, Cũng không chịu đi theo luật pháp Ngài, 11 Quên những việc làm của Ngài, Và các công tác lạ lùng mà Ngài đã tỏ cho chúng nó thấy".

(Quan 2:7-10) "7 Dân sự phục sự Đức Giê-hô-va trong trọn đời Giô-suê và trọn đời các trưởng lão còn sống lâu hơn Giô-suê, là những kẻ đã thấy các công việc lớn lao mà Đức Giê-hô-va đã làm ra vì Y-sơ-ra-ên. 8 Đoạn, Giô-suê, con trai của Nun, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, qua đời, tuổi được một trăm mười; 9 người ta chôn người trong địa phận về sản nghiệp người, tại Thim-nát-Hê-re trên núi Ép-ra-im, về phía bắc núi Ga-ách. 10 Hết thảy người đời ấy cũng được tiếp về tổ phụ mình; rồi một đời khác nổi lên, chẳng biết Đức Giê-hô-va, cũng chẳng biết các điều Ngài đã làm nhân vì Y-sơ-ra-ên".

 

III/ Y SƠ RA ÊN LÀ MỘT QUỐC GIA PHẢN NGHỊCH (Israel was a rebellious nation).

(Thi 78:12-19) "12 Tại trong xứ Ê-díp-tô, nơi đồng bằng Xô-an, Ngài làm những phép lạ trước mặt tổ phụ chúng nó. 13 Ngài rẽ biển ra, làm cho họ đi ngang qua, Khiến nước dựng lên như một đống. 14 Ngài dẫn dắt họ, ban ngày bằng áng mây, Trọn ban đêm bằng ánh sáng lửa. 15 Ngài bửa hòn đá ra trong đồng vắng, Ban cho họ uống nước nhiều như từ vực sâu ra. 16 Ngài cũng khiến suối từ hòn đá phun ra, Và làm cho nước chảy ra như sông 17 Dầu vậy, họ cứ phạm tội cùng Ngài, Phản nghịch cùng Đấng Chí cao trong đồng vắng. 18 Trong lòng họ thử Đức Chúa Trời, Mà cầu xin đồ ăn theo tình dục mình. 19 Họ nói nghịch cùng Đức Chúa Trời, Mà rằng: Đức Chúa Trời há có thể dọn bàn nơi đồng vắng sao? 20 Kìa, Ngài đã đập hòn đá, nước bèn phun ra, Dòng chảy tràn; Ngài há cũng có thể ban bánh sao? Ngài há sẽ sắm sửa thịt cho dân Ngài ư? 21 Vì vậy Đức Giê-hô-va có nghe bèn nổi giận; Có lửa cháy nghịch cùng Gia-cốp, Sự giận nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên; 22 Bởi vì chúng nó không tin Đức Chúa Trời, Cũng chẳng nhờ cậy sự cứu rỗi của Ngài".

 

1/ Phản nghịch מָרָה [mârâh] (provoke / rebel): Khiêu khích, chống đối.

* Khiêu khích, chọc tức, làm bực tức. Làm cho ai tức giận (exasperate) hoặc phát cáu (irritate).

* Nổi loạn, chống đối. Công khai chiến đấu chống lại (fight against), hay nổi dậy (revolt), hay kháng cự lại (resist) quyền lực hoặc sự kiểm soát của ai.

(Thi 78:8) "Để chúng nó chẳng như tổ phụ mình, Là một dòng dõi cố chấp phản nghịch, Chẳng dọn lòng cho chánh đáng, Có tâm thần không trung tín cùng Đức Chúa Trời".

(Thi 78:17) "Dầu vậy, họ cứ phạm tội cùng Ngài, Phản nghịch cùng Đấng Chí cao trong đồng vắng".

(1) Nghĩa nguyên thủy: Đắng (to be bitter), hoặc làm cho đắng (make bitter).

(2) Nghĩa đen: Không hài lòng, không vừa ý, cãi cọ (unpleasant).

(3) Nghĩa bóng: Nổi loạn (rebel); kháng cự lại (resist); chọc tức (provoke).

(Phục 9:23-24) "23 Khi Đức Giê-hô-va sai các ngươi đi từ Ca-đe-Ba-nê-a, có dặn rằng: Hãy đi lên nhận lấy xứ ta ban cho các ngươi, thì các ngươi đã bội nghịch mạng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, không tin Ngài và không nghe theo tiếng Ngài. 24 Từ ngày ta biết các ngươi cho đến bây giờ, các ngươi thường phản nghịch cùng Đức Giê-hô-va".

(Giê 5:23) "nhưng dân nầy thì lại có lòng ngoa ngạnh và bạn nghịch, hết thảy đều dấy loạn và đi".

(Ca 1:18) "Đức Giê-hô-va là công bình, vì ta đã bạn nghịch cùng mạng Ngài. Hỡi các dân, xin hãy nghe hết thảy, hãy xem sự buồn bực ta! Gái đồng trinh và trai trẻ ta đã đi làm phu tù...

(Ca 1:20) "Hỡi Đức Giê-hô-va, xin đoái xem, vì tôi gặp hoạn nạn; lòng tôi bối rối; Trái tim tôi chuyển động, vì tôi bạn nghịch lắm lắm! Ở ngoài có gươm dao làm cho mất, trong nhà có sự tử vong".

 

2/ Thử נָסָה [nacah] (tempt / test): Cám dỗ, thử nghiệm.

* Xúi giục, cám dỗ. Tìm cách thuyết phục ai làm cái gì, nhất là điều sai trái.

* Thử nghiệm, xét nghiệm. Xem xét và đo lường phẩm chất, năng lực của ai.

(Thi 78:18) "Trong lòng họ thử Đức Chúa Trời, Mà cầu xin đồ ăn theo tình dục mình".

(Thi 78:41) "Chúng nó lại thử Đức Chúa Trời, Trêu chọc Đấng thánh của Y-sơ-ra-ên".

(Thi 78:56) "Dầu vậy, chúng nó thử và phản nghịch Đức Chúa Trời Chí cao, Không giữ các chứng cớ của Ngài".

(Xuất 17:2) "Dân sự bèn kiếm cớ cãi lộn cùng Môi-se mà rằng: Hãy cho chúng tôi nước uống. Môi-se đáp rằng: Sao các ngươi kiếm cớ cãi lộn cùng ta? Sao ướm thử Đức Giê-hô-va vậy?".

(Xuất 17:7) "Người đặt tên nơi nầy là Ma-sa và Mê-ri-ba, vì cớ việc cãi lộn mà dân Y-sơ-ra-ên kiếm cớ gây cùng người, và vì họ đã ướm thử Đức Giê-hô-va mà nói rằng: Có Đức Giê-hô-va ở giữa chúng ta hay chăng?".

(Phục 6:16) "Các ngươi chớ thử Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, như đã thử Ngài tại Ma-sa".

(Thi 95:8-9) "8 Chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba, Như nhằm ngày Ma-sa trong đồng vắng, 9 Là nơi tổ phụ các ngươi thử ta, dò ta, Và thấy công việc ta".

(Thi 106:13-14) "13 Họ lại mau mau quên các công việc Ngài, Không chờ đợi lời chỉ giáo Ngài, 14 Nhưng có lòng tham dục quá đỗi tại trong đồng vắng, Và thử Đức Chúa Trời nơi vắng vẻ".

 

3/ Dầu vậy, Đức Chúa Trời vẫn giàu ơn (God was gracious) và ban cho họ nhiều cơ hội để bắt đầu lại (gave the people opportunities to start again).

(Thi 78:23-29) "23 Dầu vậy, Ngài khiến các từng mây trên cao, Và mở các cửa trời, 24 Cho mưa ma-na xuống trên họ đặng ăn, Và ban cho lúa mì từ trên trời. 25 Người ta ăn bánh của kẻ mạnh dạn; Ngài gởi cho họ đồ ăn đầy đủ. 26 Ngài khiến gió đông thổi trên trời, Nhờ quyền năng mình Ngài dẫn gió nam. 27 Ngài khiến mưa thịt trên chúng nó như bụi tro, Và chim có cánh cũng nhiều như cát biển; 28 Ngài làm các vật đó sa xuống giữa trại quân, Khắp xung quanh nơi ở chúng nó. 29 Như vậy chúng nó ăn, được no nê chán lán, Ngài ban cho chúng nó điều chúng nó ước ao".

(Thi 78:38-39) "38 Nhưng Ngài, vì lòng thương xót, tha tội ác cho, chẳng hủy diệt chúng nó: Thật, nhiều khi Ngài xây cơn giận Ngài khỏi, chẳng nổi giận đến cực kỳ. 39 Ngài nhớ lại chúng nó chẳng qua là xác thịt, Một hơi thở qua, rồi không trở lại".

 

4/ Điều nầy không phải là một sự bào chữa để chúng ta phạm tội và thử Đức Chúa Trời (not an excuse for us to sin and tempt God).

(I Cô 10:9) "Cũng chớ thử thách Chúa như mấy người trong họ đã thử thách mà bị loài rắn hủy diệt".

 

5/ Nhưng điều nầy là một sự khích lệ để chúng ta ăn năn khi phạm tội (it is an encouragement to repent when we do sin).

(Ê sai 1:18) "Đức Giê-hô-va phán: Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau. Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết; dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên".

(Thi 51:16-17) "16 Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa: 17 Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu".

(I Giăng 1:9) "Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác".

 

IV/ SỰ ĐÁP LỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỐI VỚI CÁC NHU CẦU CỦA DÂN Y SƠ RA ÊN (God's answer to Israel's needs).

 

1/ Đức Chúa Trời ban cho Y sơ ra ên một nhà lãnh đạo thuộc linh (give them a spiritual leader). Đa vít là một người chăn chiên nên ông có hai đức tính.

* Sự chính trực (integrity) của tấm lòng.

* Năng lực (ability) của đôi tay.

Đa vít đã tìm cách phục vụ Đức Chúa Trời (to serve the Lord) và yêu thương Y sơ ra ên là đàn chiên của Ngài.

(Thi 78:70-71) "70 Ngài cũng chọn Đa-vít là tôi tớ Ngài, Bắt người từ các chuồng chiên: 71 Ngài đem người khỏi bên các chiên cho bú, Đặng người chăn giữ Gia-cốp, là dân sự Ngài, Và Y-sơ-ra-ên, là cơ nghiệp Ngài. 72 Như vậy, người chăn giữ họ theo sự thanh liêm lòng người, Và lấy sự khôn khéo tay mình mà dẫn dắt họ".

 

2/ Dân Y sơ ra ên đã không thay đổi (not changed), họ vẫn nổi loạn chống nghịch Đức Chúa Trời (still rebel against God). Nên họ vẫn cần có những người hướng dẫn trung thành (faithful instructors) trong gia đình (78:1-8) và những nhà lãnh đạo quốc gia (78:70-72).

 

KẾT LUẬN.

 

1/ Đức Chúa Trời đã truyền cho dân Y sơ ra ên phải dạy dỗ lời Chúa cho con cái mình.

(Phục 6:6-9) "6 Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; 7 khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi và phải nói đến, hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chổi dậy. 8 Khá buộc nó trên tay mình như một dấu, và nó sẽ ở giữa hai con mắt ngươi như ấn chí; 9 cũng phải viết các lời đó trên cột nhà, và trên cửa ngươi".

 

2/ Quí vị có giúp các thế hệ tiếp theo (the next generation) biết Đức Chúa Trời và phục vụ Ngài tự nguyện không? (serve the Lord acceptly).

(Thi 78:4,6) "4 Chúng ta sẽ chẳng giấu các điều ấy cùng con cháu họ, Bèn sẽ thuật lại cho dòng dõi hậu lai những sự ngợi khen Đức Giê-hô-va, Quyền năng Ngài, và công việc lạ lùng mà Ngài đã làm... 6 Hầu cho dòng dõi hậu lai, tức là con cái sẽ sanh, Được biết những điều đó, Rồi phiên chúng nó truyền lại cho con cháu mình".


Mục Sư Trương Hoàng Ứng