(Thi 115:1-18) "1 Hỡi Đức Giê-hô-va, nhân vì sự nhân từ và sự chân thật Ngài, Sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, Bèn là đáng về danh Ngài. 2 Vì sao các ngoại bang nói rằng: Đức Chúa Trời chúng nó ở đâu? 3 Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm, 4 Hình tượng chúng nó bằng bạc bằng vàng, Là công việc tay người ta làm ra. 5 Hình tượng có miệng mà không nói; Có mắt mà chẳng thấy; 6 Có tai mà không nghe; Có lỗ mũi mà chẳng ngửi; 7 Có tay, nhưng không rờ rẫm; Có chân, nào biết bước đi; Cuống họng nó chẳng ra tiếng nào. 8 Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó. Đều giống như nó. 9 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va; Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 10 Hỡi nhà A-rôn, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 11 Hỡi các người kính sợ Đức Giê-hô-va, hãy nhờ cậy nơi Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 12 Đức Giê-hô-va đã nhớ đến chúng tôi: Ngài sẽ ban phước, Ban phước cho nhà Y-sơ-ra-ên, Cũng sẽ ban phước cho nhà A-rôn. 13 Ngài sẽ ban phước cho những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va, Hoặc nhỏ hay lớn đều cũng vậy. 14 Nguyện Đức Giê-hô-va gia thêm phước Ngài cho các ngươi và cho con cháu các ngươi. 15 Đức Giê-hô-va, là Đấng dựng nên trời đất, Đã ban phước cho các ngươi. 16 Các từng trời thuộc về Đức Giê-hô-va; Nhưng Ngài đã ban đất cho con cái loài người. 17 Kẻ chết hoặc kẻ xuống cõi nín lặng chẳng ngợi khen Đức Giê-hô-va. 18 Nhưng chúng tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va, Từ bây giờ cho đến đời đời. Ha-lê-lu-gia!".

DẪN NHẬP.

1/ Thi thiên 115 là một bài thánh ca dùng để ca ngợi Đức Chúa Trời là Đấng chân thật (the one true God), bởi vì tình yêu và sự thành tín của Ngài đối với dân sự của Ngài (for His love and faithfulness toward His people).
(Thi 115:1a) "Hỡi Đức Giê-hô-va, nhân vì sự nhân từ và sự chân thật Ngài".
(Xuất 34:6) "Ngài đi ngang qua mặt người, hô rằng: Giê-hô-va! Giê-hô-va! là Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực".

2/ Thi thiên 115 được sáng tác để dân sự Đức Chúa Trời hát ngợi khen Ngài khi họ hiệp nhau thờ phượng trong đền thờ (composed as a liturgy of praise for the temple worship).
* Dân Do thái giờ đây đã hồi hương từ cảnh lưu đày tại Ba-by-lôn (returned from their exile in Babylon) họ đã về xứ của mình.
* Họ không giành công trạng trong việc thoát khỏi cảnh nô lệ và sự khôi phục đất nước (take any credit for it to themselves). Sự khôi phục của họ hoàn toàn chỉ nhờ duy một mình Đức Chúa Trời mà thôi (their restoration is due solely to Jehovah).
* Đức Chúa Trời đã làm điều đó bởi vì tình yêu bất tuyệt của Ngài dành cho dân sự Ngài (His unfailing love for His people), và bởi lòng thành tín đối với lời Ngài đã hứa (His faithfulness to His promise).
(Thi 115:1b) "Sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, Bèn là đáng về danh Ngài".
(Ê sai 48:11b) "...Ta sẽ chẳng nhường sự vinh hiển ta cho thần nào khác".

3/ Thi thiên 115 có lẽ đã được sáng tác để ngợi khen Đức Chúa Trời trong lễ khánh thành đền thờ thứ hai (at the dedication of the second temple). Khi dân Y-sơ-ra-ên đang bắt đầu hồi phục (beginning to revive) sau sự tàn phá và gián đoạn của sự lưu đày (after the disruption of the exile).
(Ê xơ ra 6:16) "Dân Y-sơ-ra-ên, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và những người khác đã bị bắt làm phu tù được về, đều giữ lễ khánh thành đền thờ của Đức Chúa Trời cách vui mừng".

4/ Mặc dầu Thi thiên 115 được sáng tác để ngợi khen Đức Chúa Trời trong lễ khánh thành đền thờ (the dedication of the second temple); nhưng Thi thiên nầy cũng được hát trong các lễ hội lớn thuộc về tôn giáo của người Do thái (used in Jewish liturgy at the great religious festival) như:
* Lễ vượt qua פֶּסַח [pecach] (Pass-over).
* Lễ các tuần שָׁבוּעַ [shabuwa`] (Weeks).
* Lễ lều tạm מִשְׁכָּן [mishkan] (Tabernacles).
* Lễ cung hiến đền thờ חֲנֻכָּא [chanukka'] (Dedication).
* Lễ trăng mới ראש חודש [rosh chodesh] (New-Moon).
Trong lễ Vượt qua, người Do thái hát Thi thiên 113-114 trước khi ăn (sung before the meal) và hát Thi thiên 115-118 sau bữa ăn (after the meal).

5/ Cấu trúc của Thi thiên 115 dựa vào năm hoạt động (in five movements) liên quan đến một sự thay đổi thuộc về nghi lễ (a liturgical exchange), giữa dân sự và các viên chức phục vụ trong đền thờ (between the people and temple personnel):
(1) Thi 114:1-8: Dân sự (the people).
(2) Thi 114:9-11: Hướng dẫn viên ban hát người Lê-vi (Levitical choir leader).
(3) Thi 114:12-13: Dân sự (the people).
(4) Thi 114: 14-15: Các thầy tế lễ (the priests).
(5) Thi 114: 16-18: Dân sự (the people).

5/ Sứ điệp của Thi thiên 115 dấy lên một vài câu hỏi quan trọng cho bạn phải trả lời (this message of this psalm raises some important questions for you to answer).

I/ ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA BẠN Ở ĐÂU? (Where is your God?).

(Thi 115:2-3) "2 Vì sao các ngoại bang nói rằng: Đức Chúa Trời chúng nó ở đâu? 3 Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm".

1/ Ngoại bang גּוֹי [gowy] (gentiles / heathen): Dân ngoại, người ngoại đạo.
(Thi 115:2) "Vì sao các ngoại bang nói rằng: Đức Chúa Trời chúng nó ở đâu?
* Một người không phải là dân Do thái (a person who is not Jewish).
* Một quốc gia ngoại quốc (a foreign nation).
* Một người không thuộc về một cộng đồng tôn giáo của người đó (a person not belonging to one's religious community).
* Một người bị đánh giá là thiếu văn hoá hoặc thiếu những nguyên tắc về đạo đức (a person regarded as lacking culture or moral principles).
* Người không có tôn giáo (having no religion).
(1) Latin "gentilis" do danh từ "gens gentis" (family): Gia đình.
* Một nhóm người có cùng tập quán (a race as of the same habit).
* Một người không văn minh (an unenlightened person).
(2) Hy lạp (Greek) ἔθνος [ethnos] (pagans, gentiles): Người ngoại giáo.
* Những quốc gia ngoại quốc không thờ phượng Đức Chúa Trời (foreign nations not worshipping the true God).
* Một đám đông hoặc những cá nhân có cùng bản tính hay cùng loại (a multitude of individuals of the same nature or genus).
* Phao lô xử dụng thuật ngữ nầy để nói về các Cơ Đốc nhân dân ngoại (Paul uses the term for Gentile Christians).
(Rô 11:13) "Tôi nói cùng anh em là người ngoại: bấy lâu tôi làm sứ đồ cho dân ngoại, tôi làm vinh hiển chức vụ mình".
* Một người ngoại quốc / một người không phải là Do thái (a foreign / non-Jewish one).
(Mat 4:15) "Đất Sa-bu-lôn và Nép-ta-li, Ở về trên con đường đi đến biển, bên kia sông Giô-đanh, Tức là xứ Ga-li-lê thuộc về dân ngoại".
(Rô 3:29) "Hay là, Đức Chúa Trời chỉ là Đức Chúa Trời của dân Giu-đa sao? Há chẳng phải cũng là Đức Chúa Trời của dân ngoại ư? Phải, Ngài cũng là của dân ngoại nữa".
(Rô 11:11) "Tôi lại hỏi rằng: Có phải dân Y-sơ-ra-ên vấp chân dường ấy hầu cho té xuống chăng? Chẳng hề như vậy! Nhưng ấy là bởi tội lỗi họ mà sự cứu đã đến cho dân ngoại, hầu để giục lòng tranh đua của họ".
(Rô 15:10) "Lại có chép rằng: Hỡi dân ngoại, hãy đồng vui cùng dân Chúa".
(Rô 16:4) "là hai người liều chết để cứu sự sống tôi; ấy chẳng những một mình tôi tạ ơn hai người, nhưng cả các Hội thánh của dân ngoại nữa".
(Ga 2:8) "vì Đấng đã cảm động trong Phi-e-rơ để sai người làm sứ đồ cho những kẻ chịu cắt bì, cũng cảm động trong tôi để sai tôi làm sứ đồ cho dân ngoại".
(Ga 2:12-14) "Bởi trước lúc mấy kẻ của Gia-cơ sai đi chưa đến, thì người ăn chung với người ngoại; vừa khi họ đã đến thì người lui đứng riêng ra, bởi sợ những kẻ chịu phép cắt bì 14 Nhưng khi tôi thấy họ không đi ngay thẳng theo lẽ thật của Tin Lành, thì nói với Sê-pha trước mặt mọi người rằng: nếu anh là người Giu-đa, mà ăn ở theo cách dân ngoại, không theo cách người Giu-đa, thì làm sao anh ép dân ngoại phải theo thói Giu-đa?".
(Êp 3:1) "Ấy bởi điều đó, mà tôi, Phao-lô, vì anh em là người ngoại mà làm kẻ tù của Đức Chúa Jêsus Christ".

2/ Đức Chúa Trời אֱלֹהִים ['elohiym] (God).
(Thi 115:2) "Vì sao các ngoại bang nói rằng: Đức Chúa Trời chúng nó ở đâu"
(1) Danh từ אֱלֹהִים ['elohiym] (God): Đức Chúa Trời.
* Đấng quyền năng (mighty), vĩ đại (great).
* Đức Chúa Trời chân thật (the true God)
* Danh từ số nhiều trong danh từ אֱלֹהִים ['elohiym] dùng để nhấn mạnh nhưng ý nghĩa số ít (plural intensive - singular meaning).
* Danh từ אֱלֹהִים ['elohiym] được xử dụng đặc biệt trong hình thức số nhiều, với mạo từ để chỉ về một Đức Chúa Trời tối cao (but specifically used in the plural thus, especially with the article of the supreme God).
(Sáng 1:1) "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất".
(Ô sê 11:9b) "Vì ta là Đức Chúa Trời, không phải là người; ta là Đấng Thánh ở giữa ngươi, chẳng lấy cơn giận đến cùng ngươi".
(2) Hy lạp (Greek) θεός [theos]; Latin "Dio": Đức Chúa Trời (God) hoặc Thần thánh (god).
* Đức Chúa Trời Đấng chân thật và duy nhất (the only and true God).
* Thần linh siêu việt (the supreme Divinity).
* Một tên gọi chung của các vị thần hoặc các thần thánh (a general name of deities or divinities).
(Giăng 1:1) "Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời".
(Giăng 3:16) "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời".
(Giăng 4:24) "Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy".
(I Giăng 4:8) "Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương".
(3) Đức Chúa Trời אֱלֹהִים ['elohiym] (God): Là một Hữu thể siêu việt (the supreme being), là Đấng Sáng tạo (the Creator), và là Đấng cai trị trên toàn cõi vũ trụ (ruler of the universe).
(4) Danh từ אֱלֹהִים ['elohiym]: Cơ Đốc giáo tin rằng Đức Chúa Trời có ba ngôi hiệp một (Trinity):
(a) Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha, ngôi thứ nhất trong ba ngôi (God the Father, the first person in the trinity).
(b) Đấng Christ, ngôi thứ hai trong ba ngôi (Christ, the second person in the trinity).
(c) Đức Thánh Linh, ngôi thứ ba trong ba ngôi (Holy Spirit, the third person in the trinity).

3/ Dân ngoại đã chế nhạo và giễu cợt dân Y-sơ-ra-ên quá lâu rồi "Đức Chúa Trời của các ngươi ở đâu? (Where is your God?).
(Thi 115:2) "Vì sao các ngoại bang nói rằng: Đức Chúa Trời chúng nó ở đâu?".
(Thi 42:3) "Đang khi người ta hằng hỏi tôi: Đức Chúa Trời ngươi đâu? Thì nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm".
(Thi 42:10) "Trong khi những cừu địch tôi hằng ngày hỏi rằng: Đức Chúa Trời ngươi đâu? Thì chúng nó sỉ nhục tôi khác nào làm gãy các xương cốt tôi".
(Thi 79:10) "Vì cớ sao các dân nói rằng: Đức Chúa Trời chúng nó ở đâu? Nguyện sự báo thù huyết kẻ tôi tớ Chúa, mà đã bị đổ ra, Được biết giữa các dân, trước mặt chúng tôi".
(1) Họ muốn nói rằng: Có lẽ Đức Chúa Trời không quan tâm đến các ngươi lắm (He doesn't seem to be very interested in you), vì thế cho nên Ngài đã để cho các ngươi chịu khốn khổ trong cảnh phu tù (He leaves you to languish in capacity) suốt bảy mươi năm!
(Giô ên 2:17) "Các thầy tế lễ, là những kẻ hầu việc Đức Giê-hô-va, khá khóc lóc giữa hiên cửa và bàn thờ, và nói rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy tiếc dân Ngài, và chớ để cơ nghiệp Ngài bị sỉ nhục, và bị các nước cai trị! Làm sao để người ta nói giữa các dân tộc rằng: Nào Đức Chúa Trời chúng nó ở đâu!".
* Nhưng bây giờ họ không thể nói như vậy nữa (they can't say this anymore)
* Những lời chế nhạo và giễu cợt của họ đã phải bị nín lặng (their scorn and ridicule have been silenced).
(Mi-chê 7:10) "Kẻ thù ta sẽ thấy sự ấy và sẽ bị xấu hổ. Nó là kẻ đã bảo ta rằng: Chớ nào Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ở đâu? Mắt ta sẽ thấy sự ta ước ao xuống trên nó; nay nó sẽ bị giày đạp như bùn ngoài đường".
(2) Đức Chúa Trời đã bênh vực danh Ngài (God has vindicated His name).
(Ê sai 48:10-11a) "10 Nầy, ta luyện ngươi, nhưng không phải như luyện bạc; ta đã thử ngươi trong lò hoạn nạn. 11 Ấy là vì ta, vì một mình ta, mà ta sẽ làm điều đó; vì ta há để nhục danh ta sao?".

4/ Giờ đây, toàn thể thế gian phải thấy rõ Đức Chúa Trời là:
* Đức Chúa Trời chân thần (the true God).
* Là Đức Chúa Trời siêu việt (transcendent God).
* Và Ngài là Đấng tể trị tối thượng (He is sovereign).
(Thi 115:3) "Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm".
(Thi 11:4) "Đức Giê-hô-va ngự trong đền thánh Ngài; Ngôi Ngài ở trên trời; Con mắt Ngài nhìn xem, Mí mắt Ngài dò con loài người".
(Thi 103:19) "Đức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời, Nước Ngài cai trị trên muôn vật".
(Thi 136:26) "Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các từng trời! Vì sự nhân từ Ngài còn đến đời đời".
(Nê 1:4-5) "4 Khi tôi nghe các lời ấy, bèn ngồi mà khóc, cư tang mấy ngày; tôi cữ ăn và cầu nguyện Đức Chúa của các từng trời, mà rằng: 5 Ôi! Giê-hô-va Đức Chúa của các từng trời, tức Đức Chúa Trời cực đại và đáng kinh, hay giữ lời giao ước và lòng nhân từ cùng kẻ nào kính mến Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài!".
(Mat 6:9) "Vậy các ngươi hãy cầu như vầy: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời; Danh Cha được thánh".
(1) Sự siêu việt của Đức Chúa Trời (the transcendence of God) có nghĩa:
* Ngài được tôn cao hơn cõi vũ trụ (He is exalted above the universe).
* Và sự thực hữu của Ngài tách rời khỏi cõi vũ trụ (His being apart from it).
(Thi 135:5) "Tôi biết rằng Đức Giê-hô-va là lớn, Chúa chúng tôi trổi cao hơn hết các thần".
(2) Quyền tể trị tối thương của Đức Chúa Trời (the sovereign of God) muốn nói rằng:
* Ngài có quyền tự do làm mọi điều Ngài muốn (He is free to do whatever He pleases).
* Điều gì Ngài đẹp lòng thì luôn luôn là điều tốt lành (good), công bình (just), và khôn ngoan (wise).
(Thi 135:6) "Điều nào đẹp ý Đức Giê-hô-va làm, Ngài bèn làm điều nấy, Hoặc trên trời, dưới đất, Trong biển, hay là trong các vực sâu".

5/ Các dân ngoại (Gentiles) viếng thăm Giê-ru-sa-lem ngày xưa, cũng như các người ngoại đạo ngày nay khi đến Hội thánh, họ sẽ để ý đến sự vắng bóng các hình tượng (notice the absence of idols). Khi trở về nhà, họ có thể đã chỉ vào các thần tượng của họ (point to their gods) và hảnh diện giới thiệu với bạn (introduce you) các người thợ thủ công của họ đã làm ra các thần tượng ấy (the craftsman who made them).
(1) Có phải vị thần của bạn đang ở trên trời và đang cai trị mọi vật? (Is your God in heaven and ruling over all?).
(Thi 115:3) "Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm".
(2) Bạn có đang tin cậy một điều gì khác hơn là Đức Chúa Trời? (Are you trusting something less than God?).
(I Sử 16:25-27) "25 Vì Đức Giê-hô-va là lớn, rất đáng ngợi khen, Đáng kính sợ hơn các thần. 26 Vì các thần của những dân tộc vốn là hình tượng; Còn Đức Giê-hô-va dựng nên các từng trời. 27 Ở trước mặt Ngài có sự vinh hiển, oai nghi; Tại nơi Ngài ngự có quyền năng và sự vui vẻ".
(Đa 4:35) "Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?".

II/ ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA BẠN GIỐNG NHƯ GÌ? (What is your God like?).
1/ Hình tượng עָצָב [`atsab] (idol, image).
(Thi 115:8) "Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó. Đều giống như nó".
(1) Làm עָשָׂה [`asah] (make) có các nghĩa sau:
* Làm cho cái gì xuất hiện (cause to exist).
* Sáng tạo ra cái gì (bring forward for).
* Cung cấp (supply), thiết lập (provide), trang bị (furnish).
* Hiến dâng lễ vật (to make an offering).
* Rất chú tâm vào (focus one's attention).
* Phục vụ ai/gì (do a service for).
(2) Nhờ cậy בָּטַח [batach] (trust, trust in)
* Đặt lòng tin vào (put / make to trust).
* Tin tưởng chắc chắn vào (put confidence).
* Cảm giác an toàn nơi (to feel safe).
* Đặt lòng hy vọng nơi (make to hope).

(3) Chính vì tội thờ lạy hình tượng của dân Y-sơ-ra-ên (their idolatry) mà Đức Chúa Trời đã để họ bị người Ba-bi-lôn bắt làm phu tù (to be taken captive by the Babylon). Nhưng bây giờ họ đã học được sự bất năng và vô giá trị của các thần tượng (the impotence and worthless of idols); cho nên, họ đã chế nhạo lại những người ngoại vì cớ những tượng chạm của họ (their graven images).
(a) Hình tượng được làm bằng bạc bằng vàng; do đó giá trị của chúng được xác định tuỳ theo các điều kiện của thị trường (the value is terminated by conditions in the marketplace).
(Thi 115:4) "Hình tượng chúng nó bằng bạc bằng vàng, Là công việc tay người ta làm ra".
(b) Hình tượng được con người chế tác (manufactured by men), vì vậy còn thấp kém hơn những người thờ lạy chúng (inferior to the ones who worship them).
(Thi 135:15) "Hình tượng của các dân bằng bạc và bằng vàng, Là công việc tay loài người làm ra".
(II Vua 19:18) "ném các thần chúng nó vào lửa; nhưng chẳng phải là thần, chẳng qua là công việc của tay người ta làm ra bằng gỗ và bằng đá; nên chúng hủy diệt các thần ấy".
(II Sử 32:19) "Chúng lại nói về Đức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem, như thể các thần của dân thiên hạ đều là công việc của tay người ta làm ra".
(Công 10:24-26) "24 Một người thợ bạc kia, tên là Đê-mê-triu, vốn dùng bạc làm khám nữ thần Đi-anh, sinh nhiều lợi cho thợ làm công, 25 bèn nhóm những thợ đó và những kẻ đồng nghiệp lại, mà nói rằng: Hỡi bạn ta, các ngươi biết sự thạnh lợi chúng ta sanh bởi nghề này: 26 các ngươi lại thấy và nghe nói, không những tại thành Ê-phê-sô thôi, gần suốt hết cõi A-si nữa, rằng tên Phao-lô này đã khuyên dỗ và trở lòng nhiều người, mà nói rằng các thần bởi tay người ta làm ra chẳng phải là Chúa".
(c) Sự vô giá trị của hình tượng.
* Chúng có miệng nhưng không thể dạy bảo hoặc báo trước cho ai về tương lai (cannot teach or predict the future).
* Chúng có mắt nhưng không thấy các nan đề của dân chúng (do not see the problems of their people).
* Chúng có tai nhưng không có năng lực nghe lời cầu nguyện (no power to hear prayer).
* Chúng có mũi nhưng không ngửi được hương dâng lên cho chúng (do not smell the incense that is offered to them).
* Chúng có tay nhưng không có năng lực để cảm nhận (no power to feel).
* Chúng có chân nhưng không đi ra khỏi bệ đài của chúng (do not move off their pedestal).
* Chúng có cuống họng nhưng không thể lẩm bẩm được tiếng nào (cannot even mutter through their throat).
(Thi 135:16) "Hình tượng có miệng mà không nói, Có mắt mà chẳng thấy,  Có tai mà không nghe, Và miệng nó không hơi thở".
(Phục 4:28) "ở đó các ngươi sẽ cúng thờ những thần bằng cây và bằng đá, là công việc của tay loài người làm nên, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng ăn,cũng chẳng ngửi"
(Giê 10:3-4) "3 Vì thói quen của các dân ấy chỉ là hư không. Người ta đốn cây trong rừng, tay thợ lấy búa mà đẽo; 4 rồi lấy bạc vàng mà trang sức; dùng búa mà đóng đinh vào, đặng khỏi lung lay. 5 Các thần ấy... không biết nói; không biết đi, nên phải khiêng. Đừng sợ các thần ấy, vì không có quyền làm họa hay làm phước".
(Khải 9:20) "Còn những người sót lại, chưa bị các tai nạn đó giết đi, vẫn không ăn năn những công việc bởi tay chúng nó làm cứ thờ lạy ma quỉ cùng thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, đã và gỗ, là những tượng không thấy, không nghe, không đi được".

(4) Bạn hãy cẩn thận (be careful!) về thần tượng. Vì:
(a) Bạn sẽ trở nên giống như vị thần mà bạn thờ phượng (you become like the god you worship).
(Thi 115:8) "Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó. Đều giống như nó".
(Thi 135:18) "Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó, Đều giống như nó".
(b) Đây là nguyên tắc đã được ấn định trong lãnh vực thuộc linh:
* Các tiêu chuẩn đạo đức  của họ được định hình bởi thần của họ (their moral standards are shaped by their god).
* Ai tin cậy nơi các thần tượng thì trở nên bất khiết (impure), yếu ớt (feeble), trì độn (obtuse) và không thể hiểu biết gì cả (uncomprehending).
(Thi 115:5-7) "5 Hình tượng có miệng mà không nói; Có mắt mà chẳng thấy; Có tai mà không nghe; Có lỗ mũi mà chẳng ngửi; 7 Có tay, nhưng không rờ rẫm; Có chân, nào biết bước đi; Cuống họng nó chẳng ra tiếng nào".

2/ Thi thiên 115:9-16 là một lời kêu gọi hãy nhờ cậy Đức Chúa Trời (the call to trust in the Lord); đừng tin cậy các thần tượng (not in idols). Vì Đức Chúa Trời là sự tiếp trợ và cái khiên của họ, và cũng là Đấng ban phước cho họ.
(Thi 115:9-16) "9 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va; Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 10 Hỡi nhà A-rôn, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 11 Hỡi các người kính sợ Đức Giê-hô-va, hãy nhờ cậy nơi Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 12 Đức Giê-hô-va đã nhớ đến chúng tôi: Ngài sẽ ban phước, Ban phước cho nhà Y-sơ-ra-ên, Cũng sẽ ban phước cho nhà A-rôn. 13 Ngài sẽ ban phước cho những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va, Hoặc nhỏ hay lớn đều cũng vậy. 14 Nguyện Đức Giê-hô-va gia thêm phước Ngài cho các ngươi và cho con cháu các ngươi. 15 Đức Giê-hô-va, là Đấng dựng nên trời đất, Đã ban phước cho các ngươi. 16 Các từng trời thuộc về Đức Giê-hô-va; Nhưng Ngài đã ban đất cho con cái loài người".
(1) Sự tiếp trợ עֵזֶר [ezer] (help, aid, succour):
* Trợ giúp hoặc ủng hộ (assist or give support to).
* Đấng giúp đỡ (one who helps).
* Cung cấp cho một người điều mà người ấy cần hoặc tìm kiếm (provide a person what is needed or sought).
* Sự giúp đỡ ai đang trong cảnh túng thiếu, nguy hiểm, hoặc khốn khổ (aid, assistance, esp. in time of need, danger or distress).
(a) Latin "succurere": Sự viện trợ (succour). Gồm:
* Tiền tố (pref.) "suc": Chống đỡ, ủng hộ (support).
* Động từ (verb) "currerecurs": Chạy, hoạt động (run).
(b) Hy lạp (Greek) βοηθέω [boētheō] (aid or relieve, help, succor).
* Mang đến hoặc cung cấp sự viện trợ hay sự trợ giúp đến (bring or provide aid or assistance to).
* Làm dịu đi hoặc làm mất đi cơn đau, khốn khổ... (alleviate or reduce pain, suffering, etc.).
(Mat 15:25) "Song người đàn bà lại gần, lạy Ngài mà thưa rằng: Lạy Chúa, xin Chúa giúp tôi cùng!".
(Mác 9:24) "Tức thì cha đứa trẻ la lên rằng: Tôi tin; xin Chúa giúp đỡ trong sự không tin của tôi!".
(Công 20:35) "Tôi từng bảo luôn cho anh em rằng phải chịu khó làm việc như vậy, để giúp đỡ người yếu đuối, và nhớ lại lời chính Đức Chúa Jêsus có phán rằng: Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh".
(Rô 8:26) "26 Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta".
(I Cô 12:28) "Đức Chúa Trời đã lập trong Hội thánh, thứ nhứt là sứ đồ, thứ nhì là đấng tiên tri, thứ ba là thầy giáo, kế đến kẻ làm phép lạ, rồi kẻ được ơn chữa bịnh, cứu giúp, cai quản, nói các thứ tiếng".
(Khải 12:16) "Nhưng đất tiếp cứu người đàn bà, vì đất hả miệng nuốt sông mà con rồng đã phun ra từ miệng nó".
(Giăng 14:16) "Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời".
(Giăng 14:26) "Nhưng Đấng Yên ủi, tức là Đức Thánh Linh mà Cha sẽ nhân danh ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều ta đã phán cùng các ngươi".

(2) Cái khiên מָגֵן [magen]: Cái thuẫn/ cái mộc (shield), Sự bảo vệ (defence).
(Thi 115:9) "Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va; Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ".
* Miếng giáp che, thường bằng kim loại, trước đây người ta đeo ở tay để che cho thân thể khi chiến đấu (a piece of armour of esp. metal, carried on the arm or in the hand to defect blows from the head or body).
* Hành động bảo vệ hoặc chống lại sự tấn công (the act of defending from or resisting attack).
* Nghĩa ẩn dụ: Một người bảo vệ/ giám hộ (figuratively, a protector).
(Thi 7:10) "Đức Chúa Trời là cái khiên tôi, Ngài là Đấng cứu rỗi những kẻ có lòng ngay thẳng".
(a) Latin "defensum": Cái thuẫn hay hàng rào, sự bảo vệ (defence); do động từ "defendere": Bênh vực, biện hộ (defend).
(Sáng 15:1) "Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Hỡi Áp-ram! ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn".
(II Sam 22:31) "Còn Đức Chúa Trời, các đường của Ngài vốn là trọn vẹn, Lời của Đức Giê-hô-va là tinh tường. Ngài là cái thuẫn cho mọi người nương náu mình nơi Ngài".
(b) Hy lạp (Greek) θυρεός [thyreos] (shield, buckler): Cái thuẫn, cái khiên.
(Êp 6:16) "Lại phải lấy thêm đức tin làm thuẫn, nhờ đó anh em có thể dập tắt được các tên lửa của kẻ dữ".

(3) Chỉ một mình Đức Chúa Trời xứng đáng được tin cậy (only Jehovah is worthy of trust). Vì vậy:
(a) Người đơn ca (a soloist) tiến tới và kêu gọi Y-sơ-ra-ên: Hãy tin cậy không chút nao núng nơi Đức Chúa Trời (trust in the Lord).
(Thi 115:9a) "Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va".
(b) Cả ban đồng ca (the choir) cùng đáp lại bằng lời tuyên xưng (response with the confession): Ngài là sự tiếp trợ và là cái khiến của họ.
(Thi 115:9b) "Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ".
(c) Tiếp theo là nhà thầy tế lễ A-rôn được khuyên: Hãy đặt niềm tin không nao núng nơi Đức Chúa Trời (to put its faith unreservedly in the Lord).
(Thi 115:10a) "Hỡi nhà A-rôn, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va".
(d) Ban đồng ca một lần nữa đáp lại bằng lời công nhận rằng (responses with the acknowledgment): Ngài là sự tiếp trợ (help) và cũng là Đấng binh vực (defender) của họ.
(Thi 115:10b) "Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ".
(e) Lần thứ ba, vị nhạc trưởng (the precentor) mở rộng lời mời gọi đến tất cả mọi người kính sợ Đức Chúa Trời (all who fear the Lord); có lẽ gồm những người ngoại bang đã trở lại tin Chúa (including Gentile converts as well). Họ cũng biết Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ (He is their true help and their shield).
(Thi 115:11) "Hỡi các người kính sợ Đức Giê-hô-va, hãy nhờ cậy nơi Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ".
(f) Tiếp theo là các thầy tế lễ hát tiếp bài ca, bảo đảm với dân sự rằng: Chính Đức Chúa Trời nhớ đến dân tộc Y-sơ-ra-ên, Ngài đã khôi phục vận mệnh của họ, chính Ngài cũng là Đấng ban phước cho họ (restoring their fortunes will bless them).
(Thi 115:12-16) "12 Đức Giê-hô-va đã nhớ đến chúng tôi: Ngài sẽ ban phước, Ban phước cho nhà Y-sơ-ra-ên, Cũng sẽ ban phước cho nhà A-rôn. 13 Ngài sẽ ban phước cho những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va, Hoặc nhỏ hay lớn đều cũng vậy. 14 Nguyện Đức Giê-hô-va gia thêm phước Ngài cho các ngươi và cho con cháu các ngươi. 15 Đức Giê-hô-va, là Đấng dựng nên trời đất, Đã ban phước cho các ngươi. 16 Các từng trời thuộc về Đức Giê-hô-va; Nhưng Ngài đã ban đất cho con cái loài người".

(4) Sự lập lại ba lần như là một quy ước thuộc về nghi lễ (as a liturgical convention):
(a) Hãy nhờ cậy Đức Giê Hô va (trust in the Lord).
(Thi 115:9-11) "9 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va; Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 10 Hỡi nhà A-rôn, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 11 Hỡi các người kính sợ Đức Giê-hô-va, hãy nhờ cậy nơi Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ".
(b) Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va (sing to the Lord a new song).
(Thi 96:1-3) "1 Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va. 2 Hãy hát xướng cho Đức Giê-hô-va và chúc tụng danh Ngài; Từng ngày hãy truyền ra sự cứu rỗi của Ngài. 3 Hãy thuật sự vinh hiển Ngài giữa các nước, Truyền các công việc lạ lùng Ngài giữa các dân".
(c) Hãy nói sự nhân từ Ngài còn đến đời đời (let say, His lovingkindness is everlasting).
(Thi 118:2-4) "2 Nguyện Y-sơ-ra-ên nói rằng, Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời. 3 Nguyện nhà A-rôn nói rằng, Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời. 4 Nguyện những người kính sợ Đức Giê-hô-va nói rằng, Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời".
(d) Hãy chúc tụng Đức Giê-hô-va (bless the Lord).
(Thi 135:19-20) "19 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy chúc tụng Đức Giê-hô-va! Hỡi nhà A-rôn, hãy chúc tụng Đức Giê-hô-va! 20 Hỡi nhà Lê-vi, hãy chúc tụng Đức Giê-hô-va! Hỡi các người kính sợ Đức Giê-hô-va, khá chúc tụng Đức Giê-hô-va!".

(5) Đức Chúa Trời là Đấng giúp đỡ (Helper) và là Đấng bảo vệ (Defender) cho:
(a) Dân sự Y-sơ-ra-ên (the people), các thầy tế lễ (priests), những người cải đạo (the proselytes).
(Thi 115:12-13a) "12 Đức Giê-hô-va đã nhớ đến chúng tôi: Ngài sẽ ban phước, Ban phước cho nhà Y-sơ-ra-ên, Cũng sẽ ban phước cho nhà A-rôn. Ngài sẽ ban phước cho những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va".
(b) Tất cả những người thuộc mọi lứa tuổi (those of every age), mọi đẳng cấp (rank), tầng lớp xã hội (class), và mọi hoàn cảnh sống (and condition).
(Thi 115:13b) "Hoặc nhỏ hay lớn đều cũng vậy".

(6) Đức Chúa Trời sẽ gia thêm (increase) ơn phước cho:
(a) Dân sự Ngài (His people) và dòng dõi của họ (and their descendants with increase).
(Thi 115:14) "Nguyện Đức Giê-hô-va gia thêm phước Ngài cho các ngươi và cho con cháu các ngươi".
(b) Sự gia tăng ơn phước nầy có thể (probably) là:
* Sự gia tăng dân số cho một quốc gia (numerical increase for a nation).
* Cũng có thể là sự thịnh vượng bao gồm cả thuộc linh lẫn vật chất (also include spiritual and material prosperity).
(Thi 115:15-16) "15 Đức Giê-hô-va, là Đấng dựng nên trời đất, Đã ban phước cho các ngươi. 16 Các từng trời thuộc về Đức Giê-hô-va; Nhưng Ngài đã ban đất cho con cái loài người".

3/ Hãy tin cậy Đức Chúa Trời hằng sống (the living God) vì Ngài:
(a) Nhìn thấy רָאָה [ra'ah] bạn (see you).
(b) Nghe שָׁמַע [shama`] lời cầu nguyện của bạn (hear your prayers).
(c) Đồng bước đi הָלַךְ [halak] với bạn (walk with you).
(d) Giúp đỡ מוּשׁ [muwsh] (handle) bạn (help you).
(e) Nói chuyện דָּבַר [dabar] (speak) với bạn qua lời kinh thánh (speak to you from His Word).

III/ BẠN CÓ NGỢI KHEN ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA BẠN KHÔNG? (Do you praise your God?).
(Thi 115:18) "Nhưng chúng tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va, Từ bây giờ cho đến đời đời. Ha-lê-lu-gia!".
1/ Có hai động từ đều được dịch là ngợi khen (praise) trong Thi 115:8.
* Động từ בָּרַךְ [barak] (to bless, kneel down, adore) trong câu 18a: "chúng tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va".
(Thi 115:8a) "Nhưng chúng tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va".
* Động từ הָלַל [halal] trong cụm từ Ha-lê-lu-gia יָ֨הּ הַ֥לְלוּ [halal Yahh].
(Thi 115:18b) "Từ bây giờ cho đến đời đời. Ha-lê-lu-gia!".

(1) Chúc tụng בָּרַךְ [barak] (to bless, kneel down, adore).
(Thi 115:18a) "Nhưng chúng tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va, Từ bây giờ cho đến đời đời".
(Thi 113:2) "Đáng chúc tụng danh Đức Giê-hô-va. Từ bây giờ cho đến đời đời!".
(a) Động từ בָּרַךְ [barak] có các nghĩa sau:
* Quỳ, quỳ xuống (kneel down). Quỳ trên một hoặc cả hai đầu gối (fall or rest on the knees or a knee).
* Phục tùng, quy phục (submit). Chấp nhận quyền điều khiển (surrender oneself to the control or another).
* Ca ngợi, tạ ơn, chúc tụng (bless /praise).
* Tôn kính (adore). Bày tỏ niềm kính trọng và yêu mến sâu sắc (regard with honour and deep affection).
* Thờ phượng Đức Chúa Trời (worship God).
(b) Động từ בָּרַךְ [barak] (bless): Chúc tụng.
* Hàm ý đến sự chúc tụng Đức Chúa Trời như là một hành động của lòng rất yêu thương thiết tha hoặc sùng kính (by implication to bless God as an act of adoration).
* Và ngược lại, con người như là một sự lợi lộc (and vice-versa man as a benefit).
(Sáng 14:20) "Đáng ngợi khen thay Đức Chúa Trời Chí cao đã phó kẻ thù nghịch vào tay ngươi! Đoạn, Áp-ram lấy một phần mười về cả của giặc mà dâng cho vua đó".
(Thi 103:2) "Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, Chớ quên các ân huệ của Ngài".
(Châm 31:28) "Con cái nàng chổi dậy, chúc nàng được phước; Chồng nàng cũng chổi dậy, và khen ngợi nàng rằng".
(c) Latin "adorare" (worship). Gồm
* Tiền tố (pref.) "ad": Đến, với (to).
* Động từ "orare": Nói (speak) hoặc cầu nguyện (pray).
(d) Hy lạp (Greek) εὐλογέω [eulogeō] (bless /praise): Tạ ơn, khen ngợi.
(Mác 6:41) "Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con cá cho họ nữa".
(Gia 3:9-10) "9 Bởi cái lưỡi chúng ta khen ngợi Chúa, Cha chúng ta, và cũng bởi nó chúng ta rủa sả loài người, là loài tạo theo hình ảnh Đức Chúa Trời. 10 Đồng một lỗ miệng mà ra cả sự khen ngợi và rủa sả! Hỡi anh em, không nên như vậy".

(2) Ngợi khen trong cụm từ Ha-lê-lu-gia יָ֨הּ הַ֥לְלוּ [halal Yahh] Gồm:
(a) Động từ הָלַל [halal] (praise):
* Đây là động từ mà người Do thái thường xử dụng để ngợi khen Đức Chúa Trời (usually used in reference to the praise of God).
* Các Thi thiên từ 113 đến 118  theo truyền thống được gọi là các Thi thiên ngợi khen (the Hallel Psalms).
* Động từ הָלַל [halal] (praise) có các nghĩa sau:
+ Sáng, chiếu sáng (to shine). Phát ra ánh sáng hoặc phản chiếu ánh sáng (emit or reflect light).
+ Chớp sáng (to flash forth light). Phát ánh sáng loé lên trong chốc lát (cause to emit or reflect light, suddenly, or intermittently).
+ Ca ngợi, tán dương (to praise). Biểu lộ sự đồng tình hoặc thán phục ai/gì (express warm approval or admiration of).
+ Tôn vinh Đức Chúa Trời bằng lời nói (glorify God in words).
(b) Danh từ יָהּ [Yahh]: Tên gọi riêng của Đức Giê Hô va (proper name of Jehovah).
* Danh từ Gia יָהּ [Yahh] (Jah) là hình thức rút ngắn của danh từ riêng Giê Hô Va יְהֹוָה [Yĕhovah] (Jehovah in the shortened form) có nghĩa là Đấng hằng hữu hoặc Đấng tự hữu (Jehovah =  the existing One or the self-Existent).
* Danh xưng Đức Giê Hô Va יְהֹוָה [Yĕhovah] chỉ được phát âm với các phụ âm YHWH (unpronounced except with the vowel pointings)
* Danh xưng Đức Giê Hô Va יְהֹוָה [Yĕhovah] là tên riêng của Đức Chúa Trời Đấng chân thần độc nhất (the proper name of the one true God).

2/ Đức Chúa Trời đã ban phước cho bạn (blessed you); bạn có ngợi khen Ngài không? (Have you bless Him?).
(Thi 115:18) "Nhưng chúng tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va, Từ bây giờ cho đến đời đời. Ha-lê-lu-gia!".
(Thi 111:1) "Ha-lê-lu-gia! Tôi sẽ hết lòng ngợi khen Đức Giê-hô-va Trong đám người ngay thẳng và tại hội chúng".
(Thi 35:18) "Tôi sẽ cảm tạ Chúa trong hội lớn, Ngợi khen Ngài giữa dân đông".

3/ Đức Chúa Trời đã ban cho bạn các lời hứa (given you promises); bạn có tin cậy Ngài không? (Do you trust Him?).
(Thi 37:3) "Hãy tin cậy Đức Giê-hô-va, và làm điều lành; Khá ở trong xứ, và nuôi mình bằng sự thành tín của Ngài".

4/ Đức Chúa Trời là Đấng hằng sống (the living God); đời sống bạn có tôn vinh Ngài không? (Does your life glorify Him?).
(Thi 115:1) "Hỡi Đức Giê-hô-va, nhân vì sự nhân từ và sự chân thật Ngài, Sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, Bèn là đáng về danh Ngài".
(Thi 29:1-2) "1 Hỡi các con của Đức Chúa Trời, Hãy tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng. 2 Hãy tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng cho danh Ngài; Hãy mặc trang sức thánh mà thờ lạy Đức Giê-hô-va".
(Thi 66:2) "Hãy hát ra sự vinh hiển của danh Ngài, Hãy ngợi khen và tôn vinh Ngài".
(Thi 96:7-9) "7 Hỡi các họ hàng của muôn dân, Đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giê-hô-va. 8 Hãy tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Giê-hô-va; Hãy đem lễ vật mà vào trong hành lang Ngài. 9 Hãy mặc trang sức thánh mà thờ lạy Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá run sợ trước mặt Ngài".

KẾT LUẬN.

1/ Chỉ một mình Đức Chúa Trời là:
(1) Đấng tạo hoá đáng được sự ngợi khen (the Creation God alone deserves praise). Ngài làm những gì Ngài đẹp lòng (He does whatever He pleases).
(Thi 115:1) "Hỡi Đức Giê-hô-va, nhân vì sự nhân từ và sự chân thật Ngài, Sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, Bèn là đáng về danh Ngài.
(Thi 115:3) "Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm".
(2) Ngược lại, các thần tượng của của các dân ngoại (the nation's idols) thì:  (a) Không có thể thực hiện được bất cứ điều gì (are unable to accomplish anything).
(Thi 115:4-7) "4 Hình tượng chúng nó bằng bạc bằng vàng, Là công việc tay người ta làm ra. 5 Hình tượng có miệng mà không nói; Có mắt mà chẳng thấy; 6 Có tai mà không nghe; Có lỗ mũi mà chẳng ngửi; 7 Có tay, nhưng không rờ rẫm; có chân, nào biết bước đi; cuống họng nó chẳng ra tiếng nào"
(b) Mặc dầu các hình tượng được làm bằng những vật liệu quí giá và được trang sức đẹp đẽ (their riches and physical attributes are giving to them); nhưng không có sự sống trong các thần tượng ấy (but there are not alive to use them).
(Thi 115:4) "Hình tượng chúng nó bằng bạc bằng vàng, Là công việc tay người ta làm ra".
(c) Một cách bi thảm (tragically) là những người làm ra hình tượng và những người nhờ cậy hình tượng (their makers and followers) sẽ trở nên giống như hình tượng (become like them).
(Thi 115:8) "Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó. Đều giống như nó".
(d) Ngược lại, những tín đồ tận tâm với Đức Chúa Trời dedicated believers in the Lord) sẽ trở nên giống như Ngài (become like Him).

2/ Dân sự của Đức Chúa Trời phải tin cậy Đức Chúa Trời (trust Him) chứ không phải tin cậy nơi sự đầy đủ của chính họ, hoặc nơi hình tượng (not in their own sufficiency or in idols).
(Thi 115:1) "Hỡi Đức Giê-hô-va, nhân vì sự nhân từ và sự chân thật Ngài, Sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, Bèn là đáng về danh Ngài".
(Thi 115:8-11) "8 Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó. Đều giống như nó. 9 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va; Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 10 Hỡi nhà A-rôn, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 11 Hỡi các người kính sợ Đức Giê-hô-va, hãy nhờ cậy nơi Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ".
(1) Đức Chúa Trời chân thần (The true God) sẽ giúp đỡ tất cả những ai tin theo Ngài (helps and blesses all who follow Him).
(Thi 115:9-15) "9 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va; Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 10 Hỡi nhà A-rôn, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 11 Hỡi các người kính sợ Đức Giê-hô-va, hãy nhờ cậy nơi Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ. 12 Đức Giê-hô-va đã nhớ đến chúng tôi: Ngài sẽ ban phước, Ban phước cho nhà Y-sơ-ra-ên, Cũng sẽ ban phước cho nhà A-rôn. 13 Ngài sẽ ban phước cho những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va, Hoặc nhỏ hay lớn đều cũng vậy. 14 Nguyện Đức Giê-hô-va gia thêm phước Ngài cho các ngươi và cho con cháu các ngươi. 15 Đức Giê-hô-va, là Đấng dựng nên trời đất, Đã ban phước cho các ngươi".
(2) Những tín đồ thật sự (the true believers) sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời trong đời sống nầy và cho đến đời đời (in this life and forevermore).
(Thi 115:18) "Nhưng chúng tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va, Từ bây giờ cho đến đời đời. Ha-lê-lu-gia!".


Mục Sư Trương Hoàng Ứng