(Thi 100:1-5) "1 Hỡi cả trái đất, Hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giê-hô-va! 2 Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, Hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài. 3 Phải biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài. 4 Hãy cảm tạ mà vào các cửa Ngài, Hãy ngợi khen mà vào hành lang Ngài. Khá cảm tạ Ngài, chúc tụng danh của Ngài. 5 Vì Đức Giê-hô-va là thiện; sự nhân từ Ngài hằng có mãi mãi, Và sự thành tín Ngài còn đến đời đời".

DẪN NHẬP:


1/ Thi thiên 100 là một lời mời gọi mọi người trên toàn thế giới đến thờ phượng Đức Giê Hô Va. Lời kêu gọi của Thi thiên 100 vượt ra ngoài ranh giới hạn hẹp của nước Y sơ ra ên để đến với toàn bộ các nước ngoại bang.
Nhà giải nghĩa Kinh thánh Barnet, Albert đã viết trong quyển the Bible Commentary, Proverbs-Ezekiel. Grand Rapids Book House, 1953) như sau:
"Sự chúc tụng Chúa không thuộc riêng một quốc gia duy nhất nào; và không phù hợp để chỉ dành riêng cho một dân tộc mà thôi... và chính là bởi điều đó mà mọi dân tộc, mọi thứ tiếng và mọi hoàn cảnh đều có thể hiệp một với nhau. Cơ sở ấy là sự kiện tất cả chỉ có một Đấng Tạo hoá".
(Thi 100:1) "Hỡi cả trái đất, Hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giê-hô-va!"

2/ Thi thiên 100 là một bài thánh ca cảm tạ Đức Giê Hô Va. Sự cảm tạ là điều mà tất cả mọi người trên khắp trái đất phải làm, không những với môi miệng mà với cả đời sống của chúng ta (do with our lives as well as with our lips). Sự cảm tạ và sự thuật lại các sự kiện về Đức Chúa Trời một cách đơn sơ chính là sự thờ phượng.
Ngôn ngữ trong Thi thiên 100 không rắc rối cũng không hoa hoè (neither involved nor flowery), nhưng bản thân những từ ngữ nầy truyền tải những điều kỳ diệu. Những sự kiện đơn giản còn kỳ diệu hơn cả những điều hư cấu (the plain facts are more wonderful than fiction).

3/ Thi Thiên 100 cũng thường được hát khi người ta dâng của lễ thù ân (the Psalm was to accompany a thank offering).
(Lê 7:11-12) "11 Đây là luật lệ về của lễ thù ân mà người ta phải dâng cho Đức Giê-hô-va. 12 Nếu ai dâng của lễ đó đặng cảm tạ, thì phải dâng chung với của lễ thù ân những bánh nhỏ không pha men, chế dầu, bánh tráng không pha men thoa dầu, bột lọc trộn làm bánh nhỏ chế dầu".

4/ Ngày hôm nay chúng ta sẽ dâng của lễ cảm tạ Đức Chúa Trời bằng cách nào? (How shall we do it?).

I/ BẰNG SỰ HẦU VIỆC CHÚA (by Serving).
(Thi 100:2) "Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, Hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài".
1/ Hầu việc עָבַד [`abad] (serve): Phục vụ, phụng vụ, giúp việc, phục dịch, hầu việc, thực hiện nghĩa vụ.
* Làm việc một cách khó khăn (work hard) và với nhiều nổ lực lớn (with great effort) cũng không tự ý hoặc tự phát (not spontaneous or fluent).
(Phục 10:12) "Vậy, hỡi Y-sơ-ra-ên, bây giờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đòi ngươi điều chi? há chẳng phải đòi ngươi kính sợ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ngươi, đi theo các đạo Ngài, hết lòng hết ý kính mến và phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi".
(1) La tinh (Latin) laborare (labor): Hầu việc, làm việc.
* Làm việc với sự cố gắng, ráng sức, nổ lực rất lớn (exert).
* Lao động cần cù, làm việc cặm cụi, quần quật (toil).
(2) Hy lạp (Greek) προσκυνέω [proskyneō] (serve / worship): Hầu việc hoặc thờ phượng. Gồm:
(a) Tiền tố (pref.) προσ [pros]: Tiến đến (toward).
(b) Động từ (verb) κυνέω [kuneò]: Hôn (kiss).
* Một hành động để tỏ lòng thành kính hoặc tôn kính đến Đức Chúa Trời (an act of homage or reverence to God).
(Mat 4:10) "Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi".
(Khải 4:10) "hai mươi bốn trưởng lão sấp mình xuống trước mặt Đấng ngự trên ngôi, và thờ lạy Đấng hằng sống đời đời; rồi quăng mão triều thiên mình trước ngôi mà".

2/ Cách vui mừng שִׂמְחָה [simchah] (gladness): Niềm vui, sự sung sướng, sự hài lòng, sự vui thích.
(Thi 100:2) "Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, Hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài".
(1) Hy bá lai (Hebrew): Cách vui mừng.
* Sự vui lòng và hăng hái làm việc (pleased, willing).
* Biểu hiện niềm vui (marked by, filled with, or expressing joy).
* Gây ra hoặc đem lại niềm hân hoan (giving joy).
(2) La tinh (Latin) gaudium / gaudère (joy / rejoice / mirth):
* Một cảm xúc mạnh mẽ của sự hài lòng (a vivid emotion of pleasure).
* Một sự vui mừng cực độ (extreme gladness).
* Cảm thấy hoặc tỏ ra rất vui mừng (feel joy or take delight).
(3) Hy lạp (Greek) εὐφροσύνη [euphrosynē] (gladness of heart): Niềm vui trong tâm hồn. Gồm:
(a) Tiền tố (pref.) εὐ [eu] (well): Hạnh phúc, thỏa mãn, hài lòng.
(b) Danh từ φρην [phrèn] (mind): Tâm trí.
(Công 2:28) "Chúa đã cho tôi biết đường sự sống; Cũng sẽ cho tôi đầy lòng vui mừng trước mặt Ngài".
(Công 2:46) "Ngày nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến đền thờ; còn ở nhà, thì bẻ bánh và dùng bữa chung với nhau cách vui vẻ thật thà".
(Công 14:17) "17 dầu vậy, Ngài cứ làm chứng luôn về mình, tức là giáng phước cho, làm mưa từ trời xuống, ban cho các ngươi mùa màng nhiều hoa quả, đồ ăn dư dật, và lòng đầy vui mừng".

3/ Bước vào để thờ phượng và ra đi để phục vụ (enter to worship_ depart to serve). Đây là câu khẩu hiệu phải được viết cách rõ ràng trên mày cửa của nhà thờ.
* Có rất nhiều người phục vụ chính họ chứ không phải họ phục vụ Chúa (serve themselves and not the Lord)
* Và cũng rất thường khi chúng ta không phục vụ Chúa với sự vui mừng (not serve the Lord with gladness).
* Đức Chúa Trời yêu những đầy tớ phục vụ Ngài cách lòng (the Lord loves a cheerful servant).

II/ BẰNG SỰ PHỤC TÙNG (by Submitting).
(Thi 100:3) "Phải biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài".
1/ Như là những tạo vật נֶפֶשׁ [nephesh] (creatures) chúng ta đầu phục Đấng tạo hoá בָּרָא [bara'] (Creator) vì Ngài là Đấng dựng nên עָשָׂה [`asah] (made) chúng ta.
(Thi 46:10) "Hãy yên lặng và biết rằng ta là Đức Chúa Trời; Ta sẽ được tôn cao trong các nước, cũng sẽ được tôn cao trên đất".
(Thi 119: 73) "Bàn tay Chúa đã làm tôi và nắn hình tôi; Xin hãy ban cho tôi trí hiểu, để tôi học điều răn Chúa".
(Thi 139:13-14) "13 Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi, Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi. 14 Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm".

2/ Như là dân sự עַם [`am] (people) chúng ta phải đầu phục Vua מֶלֶךְ [melek] (King) của chúng ta.
(Thi 97:6-7) "6 Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy; Khá quì gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo hóa chúng tôi! 7 Vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng tôi: Chúng tôi là dân của đồng cỏ Ngài, Và là chiên tay Ngài dìu dắt. Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng Ngài".
(Thi 79:13) "Còn chúng tôi là dân sự Chúa, và là bầy chiên của đồng cỏ Chúa, Chúng tôi sẽ cảm tạ Chúa mãi mãi; Từ đời nầy qua đời kia chúng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa".
(Ê xê 34:30) "Chúng nó sẽ biết ta, Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng nó, ở cùng chúng nó, và biết nhà Y-sơ-ra-ên chúng nó là dân ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy"

3/ Như là những con chiên צֹאן [tso'n] (sheeps) chúng ta phải đầu phục Đấng chăn chiên רָעָה [ra`ah] (the Shepherd) là Đấng đã chết thay cho chúng ta (died for us) và hiện nay đang dẫn chúng ta đi trong các nẻo đường của Ngài (lead us in His paths).
(Thi 74:1) "Đức Chúa Trời ôi! vì sao Chúa bỏ chúng tôi luôn luôn? Nhân sao cơn giận Chúa nổi phừng cùng bầy chiên của đồng cỏ Chúa?".
(Ê xê 34:31) "Bay là chiên của ta, là chiên của đồng cỏ ta; bay là loài người, và ta là Đức Chúa Trời bay, Chúa Giê-hô-va phán vậy".

4/ Đức Chúa Trời không chỉ đã dựng nên chúng ta, nhưng Ngài cũng đang dựng nên chúng ta nếu chúng ta đầu phục Ngài. Đầu phục có nghĩa là hoàn thành việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo.
(Êp 2:10) "vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên chúng ta,  trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo".

III/ BẰNG SỰ DÂNG CỦA LỄ (by Sacrificing).

(Thi 100:4-5) "4 Hãy cảm tạ mà vào các cửa Ngài, Hãy ngợi khen mà vào hành lang Ngài. Khá cảm tạ Ngài, chúc tụng danh của Ngài. 5 Vì Đức Giê-hô-va là thiện; sự nhân từ Ngài hằng có mãi mãi, Và sự thành tín Ngài còn đến đời đời".
1/ Cũng giống như các thầy tế lễ, chúng ta có được  đặc ân dâng các của lễ thuộc linh cho Đức Giê Hô Va.
(I Phi 2:5) "và anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời".
* Hy lạp (Greek) θυσία [thysia] (sacrifices); (Latin) "sacrificium / sacrificus": Vật hiến tế, sự tế lễ, sự cúng tế.
* Hành động của sự dâng hiến cái gì quí giá lên Đức Chúa Trời (the act of giving up something value to deity).

2/ Các của lễ thuộc linh bao gồm:
(1) Các bài ca của sự ngợi khen  (our songs of praise).
(Hê 13:15) "Vậy, hãy cậy Đức Chúa Jêsus mà hằng dâng tế lễ bằng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra".
(2) Các việc lành của chúng ta (our good works).
(Hê 13:16) "Chớ quên việc lành và lòng bố thí, vì sự tế lễ dường ấy đẹp lòng Đức Chúa Trời".
(3) Những tặng phẩm vật chất của chúng ta (our material gifts).
(Phil 4:15-18) "15 Hỡi người Phi-líp, anh em cũng biết rằng lúc tôi khởi giảng Tin lành trong khi lìa xứ Ma-xê-đoan, thì ngoài hội thánh của anh em, chẳng có hội nào khác hiệp với tôi để lập thành sự trao đổi trong chúng ta cả; 16 vì tại Tê-sa-lô-ni-ca, anh em đã một hai lần gởi đồ cung cấp về sự cần dùng cho tôi vậy. 17 Ấy không phải tôi cầu lễ vật, nhưng cầu sự kết quả nhiều bởi lễ vật đến cho anh em. 18 Vậy, tôi đã nhận được hết, và đang dư dật; tôi được đầy dẫy vì đã nhận đồ nơi Ép-ba-phô-đích mà anh em gởi cho tôi, như một thứ hương có mùi thơm, tức là một của lễ Đức Chúa Trời đáng nhận, và đẹp lòng Ngài".

KẾT LUẬN.


1/ Có một sự nối kết tuyệt vời chúng ta không được phép quên (there is a wonderful thoughts that we should not miss):
* Giê Hô Va là Đức Chúa Trời (the Lord is God): Điều nầy có nghĩa Ngài là Đấng cao cả không thể đến gần được (He is unapproachably high).
* Chúng tôi thuộc về Ngài (We are His): Điều nầy cho chúng ta biết rằng Ngài là Đấng gần gũi mật thiết (He is intimately nigh).
* Chính vì Đức Chúa Trời là Đấng không thể đến gần được mà Ngài lại đến gần với chúng ta; cho nên chúng ta hãy vui mừng ca hát ngợi khen Ngài.

2/ Thi thiên 100 đề nghị bảy yếu tố cần phải có của sự thờ phượng (seven elements of worship are suggested):
* Hãy cất tiếng reo mừng (shout joyfully).
* Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng (serve the Lord with gladness).
* Hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài (come before Him with singing).
* Hãy cảm tạ mà vào các cửa Ngài (enter into His gates with thanksgiving).
* Hãy ngợi khen mà vào hành lang Ngài (enter His courts with praise).
* Khá cảm tạ Ngài (be thankful to Him).
* Khá chúc tụng danh của Ngài (bless His name).

3/ Chúng ta ngợi khen Đức Giê Hô va vì các thuộc tính của Ngài (we should praise Him because of His attributes):
* Vì Đức Giê-hô-va là thiện (He is good).
* Sự nhân từ Ngài hằng có mãi mãi ( His mercy is everlasting).
* Sự thành tín Ngài còn đến tất cả các thế hệ (His truth endures to all generations).

4/ Chúng ta sẽ dâng của lễ cảm tạ Đức Chúa Trời bằng:
* Sự hầu việc (by Serving).
* Sự phục tùng (by Submitting).
* Sự dâng của lễ (by Sacrificing).
 


Mục Sư Trương Hoàng Ứng