(Thi 96:1-13) "1 Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va. 2 Hãy hát xướng cho Đức Giê-hô-va và chúc tụng danh Ngài; Từng ngày hãy truyền ra sự cứu rỗi của Ngài. 3 Hãy thuật sự vinh hiển Ngài giữa các nước, Truyền các công việc lạ lùng Ngài giữa các dân. 4 Vì Đức Giê-hô-va rất lớn, đáng được ngợi khen lắm lắm; Ngài đáng kính sợ hơn hết các thần. 5 Vì những thần của các dân đều là hình tượng; Còn Đức Giê-hô-va đã dựng nên các từng trời. 6 Sự tôn vinh và sự oai nghi ở trước mặt Ngài. Sự năng lực và sự hoa mỹ ở nơi thánh Ngài. 7 Hỡi các họ hàng của muôn dân, Đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giê-hô-va. 8 Hãy tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Giê-hô-va; Hãy đem lễ vật mà vào trong hành lang Ngài. 9 Hãy mặc trang sức thánh mà thờ lạy Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá run sợ trước mặt Ngài. 10 Hãy nói giữa các nước rằng: Đức Giê-hô-va cai trị: Thế gian cũng được lập vững bền, không thế rúng động. Ngài sẽ lấy sự ngay thẳng mà xét đoán các dân. 11 Nguyện các từng trời vui vẻ và đất mừng rỡ, Nguyện biển và mọi vật ở trong biển nổi tiếng ầm ầm lên. 12 Nguyện đồng ruộng và mọi vật ở trong đó đều hớn hở; Bấy giờ những cây cối trong rừng đều sẽ hát mừng rỡ 13 Trước mặt Đức Giê-hô-va; vì Ngài đến, Ngài đến đặng đoán xét thế gian; Ngài sẽ lấy sự công bình đoán xét thế gian, Dùng sự ngay thẳng mà đoán xét muôn dân".


DẪN NHẬP:


1/ Thi Thiên 96 là một lời mời gọi tất cả các quốc gia (a call to all nations) hãy ngợi khen Đức Chúa Trời như là Đức Chúa Trời duy nhất (as the only God), và công bố sự vinh hiển của triều đại Ngài trên khắp thế gian (the glory of His reign throughout the world).

2/ Thi Thiên 96 có lẽ là một bài thơ mà Đa vít đã sáng tác trước đó, như đã được chép trong sách I Sử ký đoạn 16:23-33; tuy nhiên thi thiên 96 có một sự thay đổi chút ít (in slightly altered form).
(I Sử 16:23-33) "23 Hỡi người khắp thế gian, khá hát ngợi khen Đức Giê-hô-va; Ngày ngày hãy tỏ ra sự chửng cứu của Ngài! 24 Trong các nước hãy thuật sự vinh hiển của Ngài; Tại muôn dân khá kể những công việc mầu của Ngài. 25 Vì Đức Giê-hô-va là lớn, rất đáng ngợi khen, Đáng kính sợ hơn các thần. 26 Vì các thần của những dân tộc vốn là hình tượng; Còn Đức Giê-hô-va dựng nên các từng trời. 27 Ở trước mặt Ngài có sự vinh hiển, oai nghi; Tại nơi Ngài ngự có quyền năng và sự vui vẻ, 28 Hỡi các dòng của muôn dân, Khá tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng; 29 Khá tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng danh Ngài, Đem lễ vật đến trước mặt Ngài; hãy mặc lấy trang sức thánh khiết mà thờ lạy Đức Giê-hô-va. 30 Hỡi khắp thiên hạ, khá run sợ trước mặt Ngài. Thế giới cũng được vững bền, không sao lay động. 31 Các từng trời hãy vui mừng, trái đất khá hỉ lạc; Còn trong các nước người ta đáng nói: Đức Giê-hô-va quản trị! 32 Biển và mọi vật ở trong phải dội tiếng lớn lên; Đồng nội và vạn vật trong nó đều khá vui vẻ! 33 Bấy giờ các cây cối trong rừng sẽ hát mừng rỡ trước mặt Đức Giê-hô-va; Vì Ngài đến đặng xét đoán thế gian".

3/ Bố cục Thi thiên 96 được chia làm hai phần chính, và mỗi phần chính lại được chia làm hai phần phụ.
(1) Phần thứ nhất: Một lời kêu gọi tất cả mọi quốc gia hãy hát ngợi khen Đức Chúa Trời (a call to all nations to sing the praise of the Lord) (Thi 96:1-6).
(2) Phần thứ nhì: Một lời kêu gọi tất cả mọi quốc gia hãy thờ phượng Đức Chúa Trời (a call to all nations to worship the Lord), và đón chào sự cai trị công bình của Ngài trên khắp trái đất (and to hail throughout the world the glory of His rule).

4/ Trong lời mời tất cả các quốc gia thờ phượng Đức Chúa Trời. Tác giả Thi thiên 96 đã cho bạn ba lời khuyên (you are given three admonitions):
* Hãy hát ca ngợi Chúa (sing to the Lord) (Thi 96:1-6).
* Hãy dâng lễ vật lên Chúa (give to the Lord) (Thi 96:7-10).
* Hãy trông đợi Chúa (Look for the Lord) (Thi 96:11-13).

I/ HÃY HÁT CA NGỢI CHÚA (sing to the Lord) (Thi 96:1-6).
(Thi 96:1-6) "1 Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va. 2 Hãy hát xướng cho Đức Giê-hô-va và chúc tụng danh Ngài; Từng ngày hãy truyền ra sự cứu rỗi của Ngài. 3 Hãy thuật sự vinh hiển Ngài giữa các nước, Truyền các công việc lạ lùng Ngài giữa các dân. 4 Vì Đức Giê-hô-va rất lớn, đáng được ngợi khen lắm lắm; Ngài đáng kính sợ hơn hết các thần. 5 Vì những thần của các dân đều là hình tượng; Còn Đức Giê-hô-va đã dựng nên các từng trời. 6 Sự tôn vinh và sự oai nghi ở trước mặt Ngài. Sự năng lực và sự hoa mỹ ở nơi thánh Ngài".

1/ Hát xướng רָנַן [ranan] (sing): Hát, ca hát, hát xướng.
(Thi 96:1-2) "1 Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va. 2 Hãy hát xướng cho Đức Giê-hô-va và chúc tụng danh Ngài; Từng ngày hãy truyền ra sự cứu rỗi của Ngài".
* Phát ra những ca từ bằng những âm thanh có tính nhạc (utter musical sounds with the voice, esp. words with a set tune).
(Thi 95:1a) "Hãy đến hát xướng cho Đức Giê-hô-va".
(Thi 5:11) "Nhưng phàm ai nương náu mình nơi Chúa sẽ khoái lạc, Cất tiếng reo mừng đến mãi mãi, Vì Chúa bảo hộ các người ấy; Kẻ nào ái mộ danh Chúa Cũng sẽ nức lòng mừng rỡ nơi Chúa".

2/ Bài ca mới (sing a new song)
(1) Mới חָדָשׁ [chadash]; Hy lạp (Greek) καινός [kainos] (new): Mới.
* Chưa có trước đây, vừa mới phổ biến, lần đầu tiên được làm, hoặc được sáng tác, được khám phá, hoặc được kinh nghiệm (of recent origin or made, invented, discovered, experienced recently or now the first time).
(Thi 96:1) "Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va".

(2) Thông thường trong Kinh thánh, một bài ca mới được hát lên là để kỷ niệm một hành động của sự giải cứu hoặc phước hạnh mới của Đức Chúa Trời (a new song celebrated a new act of divine deliverance or blessing).
(Thi 33:3) "Khá hát cho Ngài một bài ca mới, Và khéo gảy nhạc khí với tiếng vui mừng".
(Thi 40:3) "Ngài để nơi miệng tôi một bài hát mới, Tức là sự ngợi khen Đức Chúa Trời chúng tôi. Lắm người sẽ thấy điều đó, bắt sợ, Và nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va".
(Thi 98:1) "Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới; Vì Ngài đã làm những sự lạ lùng: Tay hữu và cánh tay thánh của Ngài đã giải cứu Ngài".
(Thi 144:9) "Hỡi Đức Chúa Trời, tôi sẽ hát xướng cho Chúa một bài ca mới, lấy đàn cầm mười dây mà hát ngợi khen Chúa".
(Thi 149:1) "Ha-lê-lu-gia! Hãy hát xướng cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới! Hãy hát ngợi khen Ngài trong hội các thánh Ngài".
(Ê sai 42:10) "Các ngươi là kẻ đi biển cùng mọi vật ở trong biển, các cù lao cùng dân cư nó, hãy hát bài ca tụng mới cho Đức Giê-hô-va, hãy từ nơi đầu cùng đất ngợi khen Ngài!".

(3) Bài ca mới cũng là một bài thánh ca (the anthem) sẽ được trổi lên khi Đức Chúa Giê su tái lâm trên đất (the Lord Jesus will return to earth), để bắt đầu cho triều đại vinh hiển của Ngài (His glorious reign).
Bài thánh ca nầy không những mới (not only a new song), mà còn là một bài ca phổ thông nữa (but a universal one as well). Mọi người từ khắp nơi trên trái đất đều sẽ chung hát bài ca mới nầy.
(Khải 5:9) "Chúng hát một bài ca mới rằng: Ngài đáng lấy quyển sách mà mở những ấn ra; vì Ngài đã chịu giết lấy huyết mình mà chuộc cho Đức Chúa Trời những người thuộc về mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc, mọi nước".
(Khải 14:3) "chúng hát một bài ca mới trước ngôi, trước bốn con sanh vật và các trưởng lão. Không ai học được bài ca đó, họa chăng chỉ có mười bốn vạn bốn ngàn người đã được chuộc khỏi đất mà thôi".

(4) Trong Thi Thiên 96:1-2 tác giả đã lập lại ba lần (triple repetition) lời kêu gọi tất cả mọi người trên trái đất hãy hát ngợi khen Đức Giê-hô-va (sing the praise of the Lord).
(Thi 96:1-2) "1 Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va. 2 Hãy hát xướng cho Đức Giê-hô-va và chúc tụng danh Ngài; Từng ngày hãy truyền ra sự cứu rỗi của Ngài".

3/ Vì trong tương lai chúng ta sẽ hát một bài ca mới cho Đức Giê Hô Va (we will sing a new song in the future); cho nên, bây giờ chúng ta phải làm điều đó (we should be doing now).

(1) Lý do chúng ta phải hát một bài thánh ca mới cho Chúa vì chúng ta có một kinh nghiệm mới với Ngài (a new experience with Him).
(Thi 96:1-2) "1 Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va. 2 Hãy hát xướng cho Đức Giê-hô-va và chúc tụng danh Ngài; Từng ngày hãy truyền ra sự cứu rỗi của Ngài".

(2) Lý do chúng ta phải hát một bài ca mới để thờ phượng (a worship hymn):
(a) Vì Đức Chúa Trời là vinh hiển (God is glorious).
(Thi 96:3) "Hãy thuật sự vinh hiển Ngài giữa các nước, Truyền các công việc lạ lùng Ngài giữa các dân".
(b) Vì Đức Chúa Trời là rất lớn (God is great).
(Thi 96:4) "Vì Đức Giê-hô-va rất lớn, đáng được ngợi khen lắm lắm; Ngài đáng kính sợ hơn hết các thần".
(c) Vì Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên các từng trời (made the heavens).
(Thi 96:5) "Vì những thần của các dân đều là hình tượng. Còn Đức Giê-hô-va đã dựng nên các từng trời".
(d) Vì Đức Chúa Trời là đáng tôn, oai nghi, năng lực và đẹp đẽ (splendor, majesty, strength and glory).
(Thi 96:6) "Sự tôn vinh và sự oai nghi ở trước mặt Ngài. Sự năng lực và sự hoa mỹ ở nơi thánh Ngài".

II/ HÃY DÂNG LỄ VẬT LÊN CHÚA (give to the Lord) (Thi 96:7-10).

(Thi 96:7-10) "7 Hỡi các họ hàng của muôn dân, Đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giê-hô-va. 8 Hãy tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Giê-hô-va; Hãy đem lễ vật mà vào trong hành lang Ngài. 9 Hãy mặc trang sức thánh mà thờ lạy Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá run sợ trước mặt Ngài. 10 Hãy nói giữa các nước rằng: Đức Giê-hô-va cai trị: Thế gian cũng được lập vững bền, không thế rúng động. Ngài sẽ lấy sự ngay thẳng mà xét đoán các dân".

1/ Dâng יָהַב [yahab] (give): Đưa, cho, biếu, tặng, cúng, hiến.
(Thi 96:8) "Hãy tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Giê-hô-va; Hãy đem lễ vật mà vào trong hành lang Ngài".
(1) Hy bá lai (Hebrew) יָהַב [yahab]: Dâng hiến.
* Chuyển quyền sở hữu cách tự nguyện (transfer the possession of freely).
* Trao một tặng phẩm (hand over as a present).
* Dâng một của lễ, một lời cầu nguyện... lên một Đức Chúa Trời (present a sacrifice, a prayer etc. to God).
(2) La tinh (Latin) "offerre": Biếu, tặng, dâng hiến (offer). Gồm:
(a) Tiền tố (pref.) "ob / of": Tới, đến (towards).
(b) Động từ (verb) "ferre": Mang đến (bring).
(3) Hy lạp (Greek) ἀναφέρω [anapherō]: Dâng (offer). Gồm:
(a) Tiền tố (pref.) ἀνα [ana]: Tới / trên (up / upon).
(b) Động từ (verb) φέρω [pheroo]: Mang đến, đặc lên trên (put / bring).
* Đặt lên trên bàn thờ (to put upon the altar).
* Mang đến bàn thờ (to bring to the altar).
(Mat 2:11) "Khi vào đến nhà, thấy con trẻ cùng Ma-ri, mẹ Ngài, thì sấp mình xuống mà thờ lạy Ngài; rồi bày của quí ra, dâng cho Ngài những lễ vật, là vàng, nhũ hương, và một được".
(Rô 12:1) "Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em".
(Hê 13:15) "Vậy, hãy cậy Đức Chúa Jêsus mà hằng dâng tế lễ bằng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra".

2/ Hãy dâng sự vinh hiển lên Đức Chúa Trời (give Him glory) cùng với:
(1) Môi miệng và tấm lòng của bạn (your lips and hearts).
(Thi 96:8a) "Hãy tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Giê-hô-va".
(2) Hãy dâng lễ vật cùng với đôi tay của bạn (give Him offerings with your hands).
(Thi 96:8b) "Hãy đem lễ vật mà vào trong hành lang Ngài".
(a) Mặc dầu, Đức Chúa Trời không cần các lễ vật của bạn (God does not need your gifts).
(Công 17:24-25) "24 Đức Chúa Trời đã dựng nên thế giới và mọi vật trong đó, là Chúa của trời đất, chẳng ngự tại đền thờ bởi tay người ta dựng nên đâu. 25 Ngài cũng chẳng dùng tay người ta hầu việc Ngài dường như có cần đến sự gì, vì Ngài là Đấng ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài".
(b) Nhưng, bạn cần phải mang các lễ vật dâng lên cho Ngài (but you need to bring your gifts to God).
(Thi 51:19) "Bấy giờ Chúa sẽ ưa thích các của lễ công bình, Của lễ thiêu, và các con sinh dâng trọn; Bấy giờ người ta sẽ dâng bò đực trên bàn thờ của Chúa".
(3) Chúa muốn của lễ mà bạn dâng lên phải là lễ vật tốt nhất (He deserves the best). Tham khảo thêm (Ma la chi 1:6-14).
(Thi 96:8) "Hãy tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Giê-hô-va; Hãy đem lễ vật mà vào trong hành lang Ngài".
(a) Hy bá lai (Hebrew) שֵׁם [shem] (due): Xứng đáng, thích hợp (proper), tốt, đúng (rightful), và thích đáng (adequate).
* Thỏa đáng về lượng hoặc chất (sufficient, satisfactory).
(b) La tinh (Latin) "adaequatus": Thỏa đáng (adequate). Do động từ "adaequare": Làm bằng nhau (make equal). Gồm:
* Tiền tố (pref.) "ad": Đạt tới, tiến tới (to).
* Tính từ (adj.) "Aequus": Bằng nhau (equal), ngang nhau. Như nhau về kích cỡ, giá trị, lượng, số, mức độ... (the same in quantity, quality, size, degree, rank, level etc.).
(Ma la chi 1:8,13-14) "8 Khi các ngươi dâng một con vật mù làm của lễ, điều đó há chẳng phải là dữ sao? Khi các ngươi dâng một con vật què hoặc đau, điều đó há chẳng phải là dữ sao? Thử dân nó cho quan trấn thủ ngươi, thì người há đẹp lòng và vui nhận cho ngươi sao? Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vậy... 13 Các ngươi lại nói rằng: Ôi! việc khó nhọc là dường nào! rồi các ngươi khinh dể nó, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy! Các ngươi đem đến vật bị cướp, vật què và đang, đó là của các ngươi đem dâng cho ta. Ta há có thể nhận vật nầy nơi tay các ngươi sao? Đức Giê-hô-va phán vậy. 14 Đáng rủa thay là kẻ hay lừa dối, trong bầy nó có con đực, mà nó hứa nguyện và dâng con tàn tật làm của lễ cho Chúa! Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Vì ta là Vua lớn, danh ta là đáng sợ giữa các dân ngoại".

3/ Chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời trong vẻ đẹp của sự thánh khiết (we should worship Him in the beauty of Holiness) hay trong sự mặc trang sức thánh (or in holy garments) để bày tỏ sự tôn kính Ngài (pay Him obeisance).
(Thi 96:9) "Hãy mặc trang sức thánh mà thờ lạy Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá run sợ trước mặt Ngài.
(1) Hy bá lai (Hebrew) קֹדֶשׁ [qodesh] (holiness): Thánh.
* Sacredness: Sự thiêng liêng, linh thiêng. Đã được hiến dâng hoặc đã được dành riêng cho Đức Chúa Trời hoặc cho các mục đích tôn giáo (exclusively dedicated or appropriated to God or to religious purpose).
* Set-apartness / separateness: Tách biệt, biệt riêng ra.
(2) La tinh (Latin): Gồm hai ý:
(a) Sacrare / sacer sacri (adj): Thánh, linh thiêng (holy). Thuộc về Đức Chúa Trời; hoặc đã được dâng cho Đức Chúa Trời; hoặc đã được trao quyền bởi Đức Chúa Trời (belonging to, devoted to, or empowered by God).
(b) Sacrificium / sacrificus (noun): Sự tế lễ, vật hiến tế (sacrifice).
(Thi 29:2) "Hãy tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng cho danh Ngài; hãy mặc trang sức thánh mà thờ lạy Đức Giê-hô-va".
(Thi 110:3) "Trong ngày quyền thế Chúa, dân Chúa tình nguyện lại đến; Những kẻ trẻ tuổi ngươi mặc trang sức thánh cũng đến cùng ngươi Như giọt sương bởi lòng rạng đông mà ra".
(I Sử 16:29) "Khá tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng danh Ngài, Đem lễ vật đến trước mặt Ngài; hãy mặc lấy trang sức thánh khiết mà thờ lạy Đức Giê-hô-va".
(II Sử 20:21) "Khi người đã bàn nghị với dân sự, bèn lập những người ca xướng cho Đức Giê-hô-va mặc áo lễ thánh mà đi ra trước cơ binh ngợi khen Chúa rằng: Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì sự thương xót Ngài hằng có đời đời".
(3) Mặc dầu, sự tôn kính chủ yếu là vấn đề của tấm lòng (primarily a matter of the heart); nhưng cũng đúng khi chúng ta bày tỏ lòng tôn kính của chúng ta qua quần áo (express our reverence by attire).

III/ HÃY TRÔNG ĐỢI CHÚA (Look for the Lord) (Thi 96:11-13).
(Thi 96:11-12) "11 Nguyện các từng trời vui vẻ và đất mừng rỡ, Nguyện biển và mọi vật ở trong biển nổi tiếng ầm ầm lên. 12 Nguyện đồng ruộng và mọi vật ở trong đó đều hớn hở; Bấy giờ những cây cối trong rừng đều sẽ hát mừng rỡ".
(Rô 8:19) "Thật thế, muôn vật ước ao, nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra".

1/ Trông đợi ἀπεκδέχομαι [apekdechomai] (wait for / look for): Chờ đợi, hy vọng. Gồm:
(a) Tiền tố (pref.) ἀπό [apo]: Đối với (for).
(b) Động từ (verb) ἐκδέχομαι [ekdechomai]: Chờ đợi, trông chờ (wait / look).
* Đợi và để ý xem (ai/gì) trong một thời gian nào đó hoặc cho đến khi (ai/gì) sẽ đến hoặc sẽ xảy ra.
* Sự chờ đợi (ai / gì) cách kiên nhẫn, chăm chú, và thận trọng (assiduously and patiently waiting for).

2/ Tất cả mọi tạo vật hăm hở trông đợi sự tái lâm của Đức Chúa Giê su (the Lord's return). Bởi vì lúc bấy giờ, các tạo vật sẽ được giải cứu (creation will be set free).
(Rô 8:18-25) "18 Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta. 19 Thật thế, muôn vật ước ao, nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra. 20 Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. 21 Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. 22 Vì chúng ta biết rằng muôn vật đều than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay; 23 không những muôn vật thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng đang khi trông đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy. Vì chúng ta được cứu trong sự trông cậy, nhưng khi người ta đã thấy điều mình trông rồi, ấy không phải là trông nữa: mình thấy rồi, sao còn trông làm chi? 25 Song nếu chúng ta trông điều mình không thấy, ấy là chúng ta chờ đợi điều đó cách nhịn nhục".

3/ Khi Chúa Giê su tái lâm; những người bị áp bức sẽ được minh oan (the oppressed people will be vindicated) và các tội nhân sẽ bị đoán phạt (sinners will be judged).
(Thi 96:13) "Trước mặt Đức Giê-hô-va; vì Ngài đến, Ngài đến đặng đoán xét thế gian; Ngài sẽ lấy sự công bình đoán xét thế gian, Dùng sự ngay thẳng mà đoán xét muôn dân".
(II Phi 3:13) "Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở".

4/ Khi Đức Chúa Giê su lên ngôi cai trị (come to reign) dân sự của Chúa sẽ được đồng trị với Ngài (reign with Christ).
(Mat 19:28) "Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, đến kỳ muôn vật đổi mới, là khi Con người sẽ ngự trên ngôi vinh hiển của Ngài, thì các ngươi là kẻ đã theo ta, cũng sẽ ngồi trên mười hai ngôi, mà xét đoán mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên".
(II Tim 2:12) "lại nếu chúng ta chịu thử thách nổi, thì sẽ cùng Ngài đồng trị; nếu chúng ta chối Ngài, thì Ngài cũng sẽ chối chúng ta".
(Khải 20:6) "Phước thay và thánh thay những kẻ được phần về sự sống lại thứ nhất! Sự chết thứ nhì không có quyền gì trên những người ấy; song những người ấy sẽ làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và của Đấng Christ, cùng sẽ trị vì với Ngài trong một ngàn năm".

KẾT LUẬN.


1/ Thi thiên 96 cũng như bốn Thi thiên khác (Thi 100; 117; 134; và 150) các tác giả thường xử dụng động từ theo thể mệnh lịnh cách (imperatives).
Trong Thi thiên 96 có ít nhất 17 cách khác nhau (seventeen different ways) để ngợi khen Đức Chúa Trời được nêu qua hình thức ngắn gọn theo thể mệnh lệnh (of crisp commands), đặc biệt trong các câu (Thi 96:1-3; 7-10).
(1) Hãy hát cho Đức Chúa Trời (sing to the Lord).
(Thi 96:1-3) "Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va. 2 Hãy hát xướng cho Đức Giê-hô-va và chúc tụng danh Ngài; Từng ngày hãy truyền ra sự cứu rỗi của Ngài. 3 Hãy thuật sự vinh hiển Ngài giữa các nước, Truyền các công việc lạ lùng Ngài giữa các dân".
(2) Hãy dâng / tôn vinh cho Đức Chúa Trời (ascribe to the Lord).
(Thi 96:7-8) "7 Hỡi các họ hàng của muôn dân, Đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giê-hô-va. 8 Hãy tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Giê-hô-va; hãy đem lễ vật mà vào trong hành lang Ngài".

2/ Toàn cõi tạo vật được mời cùng tham gia vào sự vui mừng trong kỳ lễ hội khi Chúa đến để cai trị thế gian.
* Các từng trời sẽ vui vẻ (the heavens will be happy).
* Đất sẽ mừng rỡ (the earth will be glad).
* Biển và mọi vật ở trong biển nổi tiếng ầm ầm lên (the sea and all within it will thunder). Gelineau đã dịch: "Biển và mọi vật ở trong biển sẽ rền vang tiếng ngợi khen" (will thunder praise).
* Nguyện đồng ruộng và mọi vật ở trong đó đều hớn hở (let the fields be jubilant, and everything in them), những cây cối trong rừng đều sẽ hát mừng rỡ (all the trees of the forest will sing for joy). Knox đã dịch: "Không cây cối nào ngoài rừng mà không vui mừng để đón chào sự tái lâm của Cứu Chúa mình (no field will be silent, and no tree in the forest but will rejoice to greet its Lord's coming).
(Thi 96:11-12) "11 Nguyện các từng trời vui vẻ và đất mừng rỡ, Nguyện biển và mọi vật ở trong biển nổi tiếng ầm ầm lên. 12 Nguyện đồng ruộng và mọi vật ở trong đó đều hớn hở; Bấy giờ những cây cối trong rừng đều sẽ hát mừng rỡ".

3/ Chúa Giê su sẽ đến để cai trị thế gian. Ngài sẽ cai trị trong sự công bình trọn vẹn, và ngay thẳng tuyệt đối (in perfect righteousness and in absolute honestly).
Vậy thì, tại sao chúng ta không nói cho mọi người biết về sự hồi lai của Vua Giê su? (Now therefore, why do we say nothing about bringing back the King Jesus?).
 


Mục Sư Trương Hoàng Ứng