(Thi 89:1-52) "1 Tôi sẽ hát xướng về sự nhân từ của Đức Giê-hô-va luôn luôn; Từ đời nầy sang đời kia miệng tôi sẽ truyền ra sự thành tín của Ngài. 2 Vì tôi đã nói: Sự thương xót sẽ được lập đến đời đời, Trên các từng trời Ngài sẽ lập cho vững bền sự thành tín Ngài. 3 Ta đã lập giao ước cùng kẻ được chọn của ta, Ta đã thề cùng Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, mà rằng: 4 Ta sẽ lập dòng dõi ngươi đến mãi mãi, Và dựng ngôi ngươi lên cho vững bền đến đời đời. 5 Hỡi Đức Giê-hô-va, các từng trời sẽ ngợi khen phép lạ Ngài; Sự thành tín Ngài cũng sẽ được ngợi khen trong hội các thánh. 6 Vì trên các từng trời, ai sánh được với Đức Giê-hô-va? Trong những con trai kẻ mạnh dạn, ai giống như Đức Giê-hô-va? 7 Đức Chúa Trời thật rất đáng sợ trong hội các thánh, Đáng hãi hùng hơn kẻ đứng chầu chung quanh Ngài. 8 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân, ai có quyền năng giống như Chúa? Sự thành tín Chúa ở chung quanh Chúa. 9 Chúa cai trị sự kiêu căng của biển: Khi sóng nổi lên, Chúa làm cho nó yên lặng. 10 Chúa đã chà nát Ra-háp khác nào kẻ bị đánh chết, Nhờ cánh tay mạnh mẽ Chúa, Chúa đã tản lạc những kẻ thù nghịch Chúa. 11 Các từng trời thuộc về Chúa, đất cũng thuộc về Chúa; Chúa đã sáng lập thế gian và mọi vật nó chứa. 12 Phương bắc, phương nam cũng bởi Chúa dựng nên; Tha-bô và Hẹt-môn đều vui mừng vì danh Chúa. 13 Chúa có cánh tay quyền năng, Bàn tay Chúa có sức mạnh, và tay hữu Chúa giơ cao lên. 14 Sự công bình và sự chánh trực là nền của ngôi Chúa; Sự nhân từ và sự chân thật đi trước mặt Chúa. 15 Phước cho dân nào biết tiếng vui mừng! Hỡi Đức Giê-hô-va, họ bước đi trong ánh sáng của mặt Chúa. 16 Hằng ngày họ vui mừng vì danh Chúa, Được nhắc cao lên vì sự công bình Chúa. 17 Vì Chúa là sự vinh hiển về sức lực của họ; Nhờ ơn Chúa, sừng chúng tôi sẽ được ngước cao lên. 18 Vì Đức Giê-hô-va là cái khiên của chúng tôi, Đấng thánh của Y-sơ-ra-ên là Vua chúng tôi. 19 Bấy giờ, trong dị tượng, Chúa có phán cùng người thánh của Chúa, Mà rằng: Ta đã đặt một người mạnh dạn làm kẻ tiếp trợ, Nhắc cao lên một đấng lựa chọn từ trong dân sự. 20 Ta đã gặp Đa-vít, là kẻ tôi tớ ta, Xức cho người bằng dầu thánh ta, 21 Tay ta sẽ nâng đỡ người, Cánh tay ta sẽ làm cho người mạnh mẽ. 22 Kẻ thù nghịch sẽ chẳng hiếp đáp người, Con kẻ ác cũng sẽ không làm khổ sở người được. 23 Ta sẽ đánh đổ kẻ cừu địch người tại trước mặt người. Và cũng đánh hại những kẻ ghét người. 24 Song sự thành tín và sự nhân từ ta sẽ ở cùng người; Nhân danh ta, sừng người sẽ được ngước lên. 25 Ta cũng sẽ đặt tay người trên biển, Và tay hữu người trên các sông. 26 Người sẽ kêu cùng ta rằng: Chúa là Cha tôi, Là Đức Chúa Trời tôi, và là hòn đá về sự cứu rỗi tôi. 27 Lại ta cũng sẽ làm người thành con trưởng nam ta, Vua cao hơn hết các vua trên đất. 28 Ta sẽ dành giữ cho người sự nhân từ ta đến đời đời, Lập cùng người giao ước ta cho vững bền. 29 Ta cũng sẽ làm cho dòng dõi người còn đến đời đời, Và ngôi người còn lâu dài bằng các ngày của trời. 30 Nếu con cháu người bỏ luật pháp ta, Không đi theo mạng lịnh ta, 31 Nếu chúng nó bội nghịch luật lệ ta, Chẳng giữ các điều răn của ta, 32 Thì ta sẽ dùng roi đánh phạt sự vi phạm chúng nó, Và lấy thương tích mà phạt sự gian ác của chúng nó. 33 Nhưng ta sẽ chẳng cất lấy sự nhân từ ta khỏi người, Và sự thành tín ta cũng sẽ chẳng hết. 34 Ta sẽ không hề bội giao ước ta, Cũng chẳng đổi lời đã ra khỏi môi miệng ta. 35 Ta đã chỉ sự thánh ta mà thề một lần, Cũng sẽ không hề nói dối với Đa-vít: 36 Dòng dõi người sẽ còn đến đời đời, Và ngôi người sẽ còn lâu như mặt trời ở trước mặt ta. 37 Ngôi ấy sẽ được lập vững bền mãi mãi như mặt trăng, Như đấng chứng thành tín tại trên trời vậy. 38 Song Chúa lại từ bỏ, khinh bỉ người, Nổi giận cùng đấng chịu xức dầu của Chúa. 39 Chúa đã gớm ghê giao ước kẻ tôi tớ Chúa, Và quăng mão triều người xuống bụi đất mà làm nó ra phàm. 40 Chúa đã đánh đổ các rào người, Phá những đồn lũy người ra tan nát. 41 Hết thảy kẻ nào đi qua cướp giựt người; Người đã trở nên sự sỉ nhục cho kẻ lân cận mình. 42 Chúa đã nhắc tay cừu địch người cao lên, Làm cho những kẻ thù nghịch người vui vẻ. 43 Phải, Chúa làm cho lưỡi gươm người thối lại, Chẳng có giúp đỡ người đứng nổi trong cơn chiến trận. 44 Chúa đã làm cho sự rực rỡ người mất đi, Ném ngôi người xuống đất, 45 Khiến các ngày đang thì người ra vắn, Và bao phủ người bằng sự sỉ nhục. 46 Đức Giê-hô-va ôi! Ngài sẽ ẩn mình hoài cho đến chừng nào? Cơn giận Ngài sẽ cháy như lửa cho đến bao giờ? 47 Ôi Chúa! xin nhớ lại thì giờ tôi ngắn dường nào: Chúa dựng nên con loài người hư không dường bao! 48 Ai là người sống mà sẽ chẳng thấy sự chết? Ai sẽ cứu linh hồn mình khỏi quyền âm phủ? 49 Hỡi Chúa, sự nhân từ xưa mà Chúa trong sự thành tín mình Đã thề cùng Đa-vít, bây giờ ở đâu? 50 Chúa ôi! xin nhớ lại sự sỉ nhục của các tôi tớ Chúa; Tôi mang trong lòng tôi sự sỉ nhục của các dân lớn, 51 Hỡi Đức Giê-hô-va, tức là sự sỉ nhục mà những kẻ thù nghịch Chúa Đã dùng để sỉ nhục các bước đấng chịu xức dầu của Chúa. 52 Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va đến đời đời! A-men! A-men!".

DẪN NHẬP.

1/ Rất nhiều thi thiên bắt đầu với sự than phiền và lời cầu nguyện (begin with complaint and prayer), nhưng kết thúc thi thiên với sự vui mừng và lời ngợi khen (end with joy and praise).
Nhưng Thi thiên 89 lại bắt đầu bằng sự vui mừng và ngợi khen, song lại kết thúc với những sự than phiền buồn bã và những lời khẩn cầu thiết tha (sad complaints and petitions)

2/ Chúng ta không biết chắc chắn thời điểm và sự kiện nào mà thi thiên nầy nói đến; chúng ta chỉ hiểu một cách tổng quát, đó là thời kỳ khi nhà của Đa vít bị suy vi một cách tồi tệ (woefully eclipsed).
(1) Một số người cho rằng sự kiện nầy xảy ra vào thời kỳ cai trị của vua Giê hô gia kin (King Jehoiachin); lúc thành Giê ru sa lem bị vua Ba by lôn là Nê bu cát nết sa (Nebuchadnezzar) bao vây và tấn công, một phần của dân Y sơ ra ên bị bắt lưu đày sang Ba by lôn lần thứ nhất, vào khoảng 599 BC.
(II Các vua 24:12-16) "12 Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, bèn cùng mẹ mình, các tôi tớ mình, các quan tướng, và các hoạn quan mình, đi ra đầu hàng vua Ba-by-lôn. Vua Ba-by-lôn bắt người nhằm năm thứ tám triều mình. 13 Y như lời Đức Giê-hô-va đã phán, người lấy hết thảy những bửu vật của đền Đức Giê-hô-va và những bửu vật của cung vua, đập bể các khí dụng bằng vàng mà Sa-lô-môn, vua Y-sơ-ra-ên, đã làm cho đền thờ của Đức Giê-hô-va. 14 Người dẫn đi cả dân Giê-ru-sa-lem, hết thảy những quan tướng, và những lính chiến mạnh mẽ, số là một muôn người; lại cũng bắt hết thảy các thợ mộc và thợ rèn; chỉ còn lại những thường dân của xứ. 15 Vậy, người đem Giê-hô-gia-kin đến Ba-by-lôn; lại bắt đem đến Ba-by-lôn, thái hậu, hoàng hậu, các hoạn quan, những người sang trọng của xứ, 16 luôn với những người chiến sĩ, số là bảy ngàn người, các thợ mộc và thợ rèn, số là một ngàn người, cả thảy đều là người mạnh dạn có tài chiến trận. Đó là những người mà vua Ba-by-lôn bắt qua Ba-by-lôn làm phu tù".
(2) Một số người khác lại cho rằng đây là giai đoạn mà dân Y sơ ra bị Nê bu cát nết sa (Nebuchadnezzar) bắt làm nô lệ tại Ba by lôn, cả vua Sê đê kia cũng đã bị lưu đày và bị lăng nhục (King Zedekiah was insulted over and abused) vào khoảng năm 597BC.
(II Các vua 25:8-12) " 8 Ngày mồng bảy tháng năm, năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem. 9 Người thiêu đốt đền thờ Đức Giê-hô-va, cung của vua, và mọi nhà trong thành Giê-ru-sa-lem; thiêu đốt luôn các nhà của người sang trọng. 10 Đoạn, đạo quân Canh-đê, vâng lịnh quan thị vệ, phá đổ vách thành chung quanh Giê-ru-sa-lem. 11 Quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt dân cư còn sót lại trong thành, luôn với những kẻ hàng đầu vua Ba-by-lôn và đám dân còn lại khác, mà dẫn đi làm phu tù. 12 Quan thị vệ chỉ chừa lại trong xứ những người nghèo khổ hơn hết, đặng trồng nho và làm ruộng".
(3) Tác giả Thi thiên nầy là Ê than người Ếch ra hít (Ethan the Ezrahite),
(a) Ê than là một người Lê vi (a Levite), một người thuộc dòng dõi của Giê đu thun (a descendant of Juduthun).
(I Sử ký 25:5-6) "5 Những người đó đều là con trai của Hê-man, thổi kèn và ngợi khen Đức Chúa Trời. Hê-man vâng mạng của Đức Chúa Trời mà làm đấng tiên kiến của vua. Đức Chúa Trời ban cho Hê-man được mười bốn con trai và ba con gái. 6 Các người ấy đều ở dưới quyền cai quản của cha mình là A-sáp, Giê-đu-thun, và Hê-man, để ca-xướng trong đền Đức Giê-hô-va với chập chỏa, đàn sắt, đàn cầm, và phục sự tại đền của Đức Chúa Trời, theo mạng lịnh của vua".
(b) Giê đu thun (Juduthun) là một người trong ba Thầy nhạc chánh của Vua Đa vít (One of David's three choir leaders) và cũng được gọi là là Đấng tiên kiến (Seer).
(I Sử ký 16:41-42) "41 với chúng có đặt Hê-man, Giê-đu-thun, và những người đã được chọn khác, gọi từng danh, đặng ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì sự thương xót Ngài còn đến đời đời; 42 còn Hê-man và Giê-đu-thun cầm những kèn và chập chỏa để làm nó vang dầy lên, cùng các nhạc khí dùng về bài ca hát của Đức Chúa Trời; các con trai của Giê-đu-thun thì đứng tại nơi cửa".
(II Sử ký 35:15) "Những người ca hát, là con cháu của A-sáp, đều ở tại chỗ mình, tùy theo lệ của Đa-vít, A-sáp, Hê-man, và Giê-đu-thun, đấng tiên kiến của vua, đã định; các người canh cửa đều ở tại mỗi cửa, không cần rời khỏi việc mình, vì anh em của họ, là người Lê-vi, sắm sửa vật dùng cho họ".


1/ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÃ LẬP MỘT GIAO ƯỚC VỚI ĐA VÍT (God made a covenant with David).
(1) Đa vít sẽ luôn luôn có một người thuộc dòng dõi của ông sẽ ngồi trên ngai vàng (a descendent on his throne); và dòng dõi của Đa vít sẽ cai trị đời đời (the Davidic line would rule forever) (II Sa mu ên 7).
(Thi 89:3-4) "3 Ta đã lập giao ước cùng kẻ được chọn của ta, Ta đã thề cùng Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, mà rằng: 4 Ta sẽ lập dòng dõi ngươi đến mãi mãi, Và dựng ngôi ngươi lên cho vững bền đến đời đời".
(II Sa mu ên 7:12-13) "12 Khi các ngày ngươi đã mãn, và ngươi ngủ với các tổ phụ ngươi, thì ta sẽ lập dòng giống ngươi kế vị ngươi, là dòng giống do ngươi sanh ra, và ta sẽ khiến cho nước nó bền vững. 13 Nó sẽ xây một đền thờ cho danh ta, và ta sẽ khiến cho ngôi cùng nước nó bền đổ đời đời".
(2) Nhưng Ê than người Ếch ra hít (Ethan the Ezrahite), tác giả của Thi thiên nầy lại có một thắc mắc. Tai sao một trong những vị vua thuộc dòng họ Đa vít đã bị bại trận (defeated in war), và đã mất ngai vàng (lost his throne).
(Thi 89:38-45) "38 Song Chúa lại từ bỏ, khinh bỉ người, Nổi giận cùng đấng chịu xức dầu của Chúa. 39 Chúa đã gớm ghê giao ước kẻ tôi tớ Chúa, Và quăng mão triều người xuống bụi đất mà làm nó ra phàm. 40 Chúa đã đánh đổ các rào người, Phá những đồn lũy người ra tan nát. 41 Hết thảy kẻ nào đi qua cướp giựt người; Người đã trở nên sự sỉ nhục cho kẻ lân cận mình. 42 Chúa đã nhắc tay cừu địch người cao lên, Làm cho những kẻ thù nghịch người vui vẻ. 43 Phải, Chúa làm cho lưỡi gươm người thối lại, Chẳng có giúp đỡ người đứng nổi trong cơn chiến trận. 44 Chúa đã làm cho sự rực rỡ người mất đi, Ném ngôi người xuống đất, 45 Khiến các ngày đang thì người ra vắn, Và bao phủ người bằng sự sỉ nhục".
(3) Điều nầy khiến cho Ê than nghĩ rằng:
(a) Đức Chúa Trời đã hủy bỏ / đã vi phạm giao ước (God had broken His covenant) mà Ngài đã lập cùng Đa vít.
(Thi 89:3) "Ta đã lập giao ước cùng kẻ được chọn của ta, Ta đã thề cùng Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, mà rằng:".
(Thi 89:28) "Ta sẽ dành giữ cho người sự nhân từ ta đến đời đời, Lập cùng người giao ước ta cho vững bền".
(Thi 89:34) "Ta sẽ không hề bội giao ước ta, Cũng chẳng đổi lời đã ra khỏi môi miệng ta".
(Thi 89:39) "Chúa đã gớm ghê giao ước kẻ tôi tớ Chúa, Và quăng mão triều người xuống bụi đất mà làm nó ra phàm".
(b) Và như thế có nghĩa là Đức Chúa Trời đã không thành tín đối với dân sự của Ngài (God was not faithful to His people).

II/ SỰ THÀNH TÍN LÀ TỪ KHOÁ CỦA THI THIÊN 89 (faithfulness is a key word in this Psalm).
(Thi 89:1) "Tôi sẽ hát xướng về sự nhân từ của Đức Giê-hô-va luôn luôn; Từ đời nầy sang đời kia miệng tôi sẽ truyền ra sự thành tín của Ngài".
(Thi 89:2) "Vì tôi đã nói: Sự thương xót sẽ được lập đến đời đời, Trên các từng trời Ngài sẽ lập cho vững bền sự thành tín Ngài".
(Thi 89:5) "Hỡi Đức Giê-hô-va, các từng trời sẽ ngợi khen phép lạ Ngài; Sự thành tín Ngài cũng sẽ được ngợi khen trong hội các thánh".
(Thi 89:8) "Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân, ai có quyền năng giống như Chúa? Sự thành tín Chúa ở chung quanh Chúa".
(Thi 89:24) "Song sự thành tín và sự nhân từ ta sẽ ở cùng người; Nhân danh ta, sừng người sẽ được ngước lên".
(Thi 89:33) "Nhưng ta sẽ chẳng cất lấy sự nhân từ ta khỏi người, Và sự thành tín ta cũng sẽ chẳng hết".

1/ Thành tín אֱמוּנָה ['emuwnah] (faithfulness): Sự trung thành, sự chung thủy, sự trung thực.
* Không có sự xảo trá, lật lọng (without faithlessness).
* Thực hiện các lời hứa (fulfilling promises).
(1) Danh từ sự thành tín אֱמוּנָה ['emuwnah] hoặc dưới hình thức rút ngắn אֱמֻנָה [ʼĕmunâh] (faithfulness) được Cựu ước nhắc đến 49 lần.
(2) Danh từ sự thành tín אֱמוּנָה ['emuwnah] có các nghĩa sau:
(a) Tự nghĩa (literally):
* Sự thành tín (faithfulness).
* Sự quả quyết, kiên quyết, chắc chắn (firmness).
* Tính ổn định, không thay đổi (stability).
* Lòng trung kiên, kiên định (steady).
(b) Nghĩa bóng (figuratively):
* Sự an toàn, an ninh (security).
* Lòng chung thủy, tính trung thực (fidelity).

2/ Sự thành tín của Đức Chúa Trời (God's faithfulness) được nhìn thấy:
(1) Từ thế hệ nầy đến thế hệ kia (from generation to generation) (89:1-4).
(2) Ở giữa dân sự dân sự Chúa (among His people) (89:5-10).
(3) Ở trong sự sáng tạo (in creation) (89:11-13).
(4) Ở giữa các quốc gia (among the nations) (89:14-18).
(5) Đối cùng Đa vít và gia đình ông (toward David and his family) (89:19-37).

3/ Ê than đã biết rất rõ về sự thành tín của Đức Chúa Trời. Nhưng những sự kiện xảy ra gần đây dường như đã phủ nhận tính chơn thật của giao ước và sự thành tín của Đức Chúa Trời (the truthfulness of the covenant and the faithfulness of the Lord).
(Thi 89:38-44) "38 Song Chúa lại từ bỏ, khinh bỉ người, Nổi giận cùng đấng chịu xức dầu của Chúa. 39 Chúa đã gớm ghê giao ước kẻ tôi tớ Chúa, Và quăng mão triều người xuống bụi đất mà làm nó ra phàm. 40 Chúa đã đánh đổ các rào người, Phá những đồn lũy người ra tan nát. 41 Hết thảy kẻ nào đi qua cướp giựt người; Người đã trở nên sự sỉ nhục cho kẻ lân cận mình. 42 Chúa đã nhắc tay cừu địch người cao lên, Làm cho những kẻ thù nghịch người vui vẻ. 43 Phải, Chúa làm cho lưỡi gươm người thối lại, Chẳng có giúp đỡ người đứng nổi trong cơn chiến trận. 44 Chúa đã làm cho sự rực rỡ người mất đi, Ném ngôi người xuống đất".

III/ SỰ CẬN THỊ THUỘC LINH (spiritual shortsightedness).

(Thi 89:49) "Hỡi Chúa, sự nhân từ xưa mà Chúa trong sự thành tín mình đã thề cùng Đa-vít, bây giờ ở đâu?".
1/ Mọi vấn nạn của Ê than đều do sự cận thị thuộc linh tạo ra.
(1) Sự ứng nghiện tối thượng (the ultimate fulfilment) của những giao ước với Đa vít chỉ ở trong Đức Chúa Giê su Christ, Ngài là con cháu của Đa vít.
(Ma thi ơ 1:1) "Gia phổ Đức Chúa Jêsus Christ, con cháu Đa-vít và con cháu Áp-ra-ham".
(2) Đức Chúa Jêsus Christ, con cháu Đa-vít (the Son of David) sẽ cai trị đời đời (reign forever).
(Lu ca 1:26-33) "26 Đến tháng thứ sáu, Đức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa- rét, xứ Ga-li-lê, 27 tới cùng một người nữ đồng trinh tên là Ma-ri, đã hứa gả cho một người nam tên là Giô-sép, về dòng vua Đa-vít. 28 Thiên sứ vào chỗ người nữ ở, nói rằng: Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi; Chúa ở cùng ngươi. 29 Ma-ri nghe nói thì bối rối, tự hỏi rằng lời chào ấy có nghĩa gì. 30 Thiên-sứ bèn nói rằng: Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. 31 Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Jêsus. 32 Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao; và Chúa, là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ phụ Ngài. 33 Ngài sẽ trị vì đời đời nhà Gia-cốp, nước Ngài vô cùng".
(3) Đức Chúa Trời không bao giờ thất tín (God's faithfulness does not fail).
(Phục 32:4) "Công việc của Hòn Đá là trọn vẹn; Vì các đường lối Ngài là công bình. Ấy là Đức Chúa Trời thành tín và vô tội; Ngài là công bình và chánh trực".
(Thi 36:6) "Hỡi Đức Giê-hô-va, sự nhân từ Ngài ở trên các từng trời; Sự thành tín Ngài đến tận các mây".
(Thi 40:10) "Tôi chẳng giấu sự công bình Chúa ở nơi lòng tôi; Tôi đã truyền ra sự thành tín và sự cứu rỗi của Chúa; Tôi nào có giấu hội lớn sự nhân từ và sự chân thật của Chúa".

KẾT LUẬN.

Khi Giê rê mi suy nghĩ về việc Giê ru sa lem bị tàn phá, ông cũng có cùng một cảm giác giống như Ê than khi Ê than nghĩ về vị vua bị đánh bại và bị truất phế (defeated and dethroned).

Nhưng, thay vì chất vấn Chúa về sự thành tín của Ngài (questioning God's faithfulness) Giê rê mi đã tái khẳng định nó (reaffirmed it)
(Ca thương 3:23) "Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm".

Bạn đừng bao giờ phán xét về sự thành tín của Đức Chúa Trời (never judge God's faithfulnes) dựa trên cơ sở của những gì bạn thấy hoặc cảm giác (on the basis of what you see or how you feel). Bạn phải biết rằng Đức Chúa Trời không bao giờ thất tín (His promises do not fail).
(II Tim 2:13) "... chúng ta không thành tín, song Ngài vẫn thành tín, vì Ngài không thể tự chối mình được".
(Dân số 23:19) "Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối, Cũng chẳng phải là con loài người đặng hối cải. Điều Ngài đã nói, Ngài há sẽ chẳng làm ư? Điều Ngài đã phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?".
(Ê xê chi ên 24:14a) "Ta là Đức Giê-hô-va, ta đã phán; sự đó sẽ xảy đến, và ta sẽ làm thành. Ta sẽ không lui đi, không tiếc, không ăn năn".
(Gia cơ 1:17) "mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào".
 


Mục Sư Trương Hoàng Ứng