(Thi 88:1-18) "1 Hỡi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi tôi. Ngày và đêm tôi kêu cầu trước mặt Chúa. 2 Nguyện lời cầu nguyện tôi thấu đến trước mặt Chúa; Xin hãy nghiêng tai qua nghe tiếng kêu cầu của tôi. 3 Vì linh hồn tôi đầy dẫy sự hoạn nạn, Mạng sống tôi hầu gần âm phủ. 4 Tôi bị kể vào số những kẻ đi xuống huyệt; Tôi khác nào một người chẳng có ai giúp đỡ, 5 Bị bỏ giữa kẻ chết, Giống như những kẻ bị giết nằm trong mồ mả, Mà Chúa không còn nhớ đến, Là kẻ bị truất khỏi tay Chúa. 6 Chúa đã để tôi nằm nơi hầm cực sâu, Tại chốn tối tăm trong vực thẳm. 7 Cơn giận Chúa đè nặng trên tôi, Chúa dùng các lượn sóng Chúa làm tôi cực nhọc. 8 Chúa khiến những kẻ quen biết tôi lìa xa tôi, Làm tôi thành một vật gớm ghiếc cho họ; Tôi bị cấm cố, không ra được. 9 Mắt tôi hao mòn vì hoạn nạn; Đức Giê-hô-va ơi, hằng ngày tôi cầu khẩn Ngài, Và giơ tay lên hướng cùng Ngài. 10 Chúa há vì kẻ chết mà sẽ làm phép lạ sao? Những kẻ qua đời há sẽ chỗi dậy đặng ngợi khen Chúa ư? 11 Sự nhân từ Chúa há sẽ được truyền ra trong mồ mả sao? Hoặc sự thành tín Chúa được giảng trong vực sâu ư? 12 Các phép lạ Chúa há sẽ được biết trong nơi tối tăm sao? Và sự công bình Chúa há sẽ được rõ trong xứ bị bỏ quên ư? 13 Còn tôi, Đức Giê-hô-va ơi, tôi kêu cầu cùng Ngài; Vừa sáng lời cầu nguyện tôi sẽ thấu đến trước mặt Ngài. 14 Đức Giê-hô-va ôi! vì sao Ngài từ bỏ linh hồn tôi, Và giấu mặt Ngài cùng tôi? 15 Tôi bị hoạn nạn hòng chết từ buổi thơ ấu; Tôi mang sự kinh khiếp Chúa, và bị hoảng hồn. 16 Sự giận dữ Chúa trôi trác tôi, Sự hãi hùng Chúa đã trừ diệt tôi. 17 Hằng ngày các điều ấy vây quanh tôi như nước, Cùng nhau bao phủ tôi. 18 Chúa khiến các bậu bạn lìa xa tôi, Cũng đã làm kẻ quen biết tôi ẩn nơi tối tăm".

DẪN NHẬP.


1/ William MacDonald đã viết trong sách Chú giải Kinh thánh cho người tín đồ (Believer's Bible commentary) như sau:
(1) Đến với Thi thiên 88, chúng ta đã đến điểm thấp nhất trong nỗi buồn và chịu khổ của con người. Dường như tác giả Thi thiên nầy đã lục soát kho từ vựng về cảnh ảm đạm và cay đắng để mô tả hoạn nạn vô vọng của mình. Ông thấy trường hợp của mình dứt khoát là vô phương cứu chữa, cứ như thể ông đang nằm trên danh sách chờ chết trong phòng cách ly của bịnh viện. Chỉ còn lại duy nhất cái xác nữa thôi, và chỉ là thời gian chờ đợi người ta kéo tấm vải phủ lên mặt và đem ông đi chôn.
(2) Điểm sáng duy nhất trong Thi thiên nầy là danh xưng của Đức Chúa Trời trong câu mở đầu của Thi thiên 88.
(Thi 88:1) "Hỡi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi tôi. Ngày và đêm tôi kêu cầu trước mặt Chúa".

2/ So sánh với Thi thiên 23, một Thi thiên khác cũng đề cập đến những kinh nghiệm về sự cận tử (about near-death experience), thì Thi thiên 88 tỏ ra sự tuyệt vọng lớn hơn nhiều (considerably greater despair).
(1) Đối diện với cái chết, nhiều lần tác giả của thi thiên 88 đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời. Nhưng lời cầu nguyện của ông đã không được Đức Chúa Trời nhậm.
(Thi 88:2) "Nguyện lời cầu nguyện tôi thấu đến trước mặt Chúa; Xin hãy nghiêng tai qua nghe tiếng kêu cầu của tôi".
(Thi 88:9) "Mắt tôi hao mòn vì hoạn nạn; Đức Giê-hô-va ơi, hằng ngày tôi cầu khẩn Ngài, Và giơ tay lên hướng cùng Ngài".
(Thi 88:13) "Còn tôi, Đức Giê-hô-va ơi, tôi kêu cầu cùng Ngài; Vừa sáng lời cầu nguyện tôi sẽ thấu đến trước mặt Ngài".
(2) Sự bất hạnh lớn đã bắt đầu và hình như có khả năng vẫn tiếp tục (misery sets in) trong cuộc đời của tác giả.
* Nỗi tuyệt vọng tràn ngập tâm hồn ông (hopelessness runs rampant).
* Khi ông bị té ngã, ông có cảm giác dường như Đức Chúa Trời lại đẩy ông xuống càng sâu hơn trong cơn lũ của sự khiếp sợ (when he down, God forces him even deeper in the flood of his terror); Ngài đã đẩy ông vào trong bóng tối của sự buồn rầu và sự chết (into the darkness of sorrow and death).
(Thi 88:14-18) "14 Đức Giê-hô-va ôi! vì sao Ngài từ bỏ linh hồn tôi, Và giấu mặt Ngài cùng tôi? 15 Tôi bị hoạn nạn hòng chết từ buổi thơ ấu; Tôi mang sự kinh khiếp Chúa, và bị hoảng hồn. 16 Sự giận dữ Chúa trôi trác tôi, Sự hãi hùng Chúa đã trừ diệt tôi. 17 Hằng ngày các điều ấy vây quanh tôi như nước, Cùng nhau bao phủ tôi. 18 Chúa khiến các bậu bạn lìa xa tôi, Cũng đã làm kẻ quen biết tôi ẩn nơi tối tăm".

I/ THI THIÊN 88 KHÔNG KẾT THÚC BẰNG MỘT CÂU CHIẾN THẮNG VINH HIỂN (the Psalm that does not end on a note of glorious victory).

1/ Thi thiên 88 là một bài ca thương của con cháu Cô rê (a lamentation of the Sons of Korah), do Hê man sáng tác cho thầy nhạc chánh theo giọng trầm. Hê man là người Ếch ra hít (Heman the Ezrahite).
(1) Hê man là con của A sáp, ông không những giỏi về âm nhạc (cả sáng tác lẫn chơi được các nhạc khí) mà ông còn là một "đấng tiên kiến" của Vua Đa vit (King David's seer) giống như một tiên tri (prophet).
(I Sử ký 25:5-6) "5 Những người đó đều là con trai của Hê-man, thổi kèn và ngợi khen Đức Chúa Trời. Hê-man vâng mạng của Đức Chúa Trời mà làm đấng tiên kiến của vua. Đức Chúa Trời ban cho Hê-man được mười bốn con trai và ba con gái. 6 Các người ấy đều ở dưới quyền cai quản của cha mình là A-sáp, Giê-đu-thun, và Hê-man, để ca-xướng trong đền Đức Giê-hô-va với chập chỏa, đàn sắt, đàn cầm, và phục sự tại đền của Đức Chúa Trời, theo mạng lịnh của vua".
(2) Ngoài ra, Hê man cũng là một người trong số những người khôn ngoan nổi tiếng (famed), sự khôn ngoan của Hê man được Kinh thánh đem so sánh với sự khôn ngoan của Vua Sa lô môn.
(I Các vua 4:30-31) "30 Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người phương đông, và sự khôn ngoan của người Ê-díp-tô. Người khôn ngoan hơn mọi người, khôn ngoan hơn Ê-than, người Ếch-ra-hít, hơn Hê-man, Canh-côn, và Đạt-đa, là các con trai Ma-hôn; danh tiếng người đồn ra trong các dân tộc chung quanh".

2/ Khi Hê man đã sáng tác Thi thiên 88 nầy, trong lúc ông đang ở trong sự đau đớn rất lớn (sufering greatly).
(1) Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã không làm giảm bớt đau đớn cho ông (God had not given him relief).
(2) Dầu vậy, Hê man vẫn tiếp tục cầu nguyện, và tiếp tục tin cậy Đức Chúa Trời (he kept on praying and trusting God).
(Thi 88:1-2) "1 Hỡi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi tôi. Ngày và đêm tôi kêu cầu trước mặt Chúa. 2 Nguyện lời cầu nguyện tôi thấu đến trước mặt Chúa; Xin hãy nghiêng tai qua nghe tiếng kêu cầu của tôi".
(Thi 88: 9) "Mắt tôi hao mòn vì hoạn nạn; Đức Giê-hô-va ơi, hằng ngày tôi cầu khẩn Ngài, Và giơ tay lên hướng cùng Ngài".
(Thi 88:13) "Còn tôi, Đức Giê-hô-va ơi, tôi kêu cầu cùng Ngài; Vừa sáng lời cầu nguyện tôi sẽ thấu đến trước mặt Ngài".

(a) Kêu cầu שָׁוַע [shava`] (cried): Kêu la, khóc lóc.
* Động từ שָׁוַע [shava`] (cried): Kêu cầu, kêu la, khóc lóc thảm thiết. Được chép trong Cựu ước 21 lần. Hầu hết đều nói lên sự cầu xin sự cứu giúp một cách thiết tha (to cry out for help).
(Thi 3:1-4) "1 Đức Giê-hô-va ôi! kẻ cừu địch tôi đã thêm nhiều dường bao! Lắm kẻ dấy lên cùng tôi thay! 2 Biết bao kẻ nói về linh hồn tôi rằng: Nơi Đức Chúa Trời chẳng có sự cứu rỗi cho nó. 3 Nhưng, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi; Ngài là sự vinh hiển tôi, và là Đấng làm cho tôi ngước đầu lên. 4 Tôi lấy tiếng tôi mà kêu cầu Đức Giê-hô-va, Từ núi thánh Ngài đáp lời tôi".
(Thi 22:1-2) "1 Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhân sao Ngài đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siếc tôi? 2 Đức Chúa Trời tôi ôi! tôi kêu cầu ban ngày, nhưng Chúa chẳng đáp lại; Ban đêm cũng vậy, song tôi nào có được an nghỉ đâu".

(b) Cầu khẩn קָרָא [qara'] (call / shout / speak loudly): Kêu gọi.
* Nói to (cái gì) để lôi kéo sự chú ý của (ai).
(Thi 88: 9) "Mắt tôi hao mòn vì hoạn nạn; Đức Giê-hô-va ơi, hằng ngày tôi cầu khẩn Ngài, Và giơ tay lên hướng cùng Ngài".
(Thi 5:1-2) "1 Hỡi Đức Giê-hô-va, xin lắng tai nghe lời tôi, Xem xét sự suy gẫm tôi. 2 Hỡi Vua tôi, Đức Chúa Trời tôi, xin hãy nghe tiếng kêu của tôi, Vì tôi cầu nguyện cùng Chúa".
* Ý nghĩa của động từ "cầu khẩn" קָרָא [qara'] nầy cũng gần giống với động từ "kêu cầu" שָׁוַע [shava`] nhưng được xử dụng phổ thông hơn. Có đến 735 lần động từ "cầu khẩn" קָרָא [qara'] được chép trong Cựu ước.
* Động từ קָרָא [qara'] có nghĩa rất rộng, nhưng chủ yếu có nghĩa là cầu khẩn

(c) Cả hai động từ: Kêu cầu שָׁוַע [shava`] và động từ: Cầu khẩn קָרָא [qara'] trong Cựu ước đồng nghĩa (synonym) với động từ kêu xin βοάω [boaō] (cry) trong Tân ước.
* Kêu la lớn tiếng (to cry, speak with a high, strong voice).
* Kêu cứu, van nài sự trợ giúp (to cry to one for help, to implore one's aid).
(Lu 18:7) "Vậy, có lẽ nào Đức Chúa Trời chẳng xét lẽ công bình cho những người đã được chọn, là kẻ đêm ngày kêu xin Ngài, mà lại chậm chạp đến cứu họ sao!".

II/ KHÔNG AI BIẾT CẢM XÚC CỦA TÔI THẾ NÀO (nobody knows how I feel)

1/ Nếu bạn nói: "không ai biết cảm xúc của tôi thế nào" thì bạn hãy để thời gian đọc Thi thiên 88 nầy. Hê man cũng đã từng có cảm giác đó như bạn.
(1) Hê man có cảm giác mình giống như một người đã chết (a dead man) bị chôn vào hố sâu tăm tối (a dark pit).
(Thi 88:3-6) "3 Vì linh hồn tôi đầy dẫy sự hoạn nạn, Mạng sống tôi hầu gần âm phủ. 4 Tôi bị kể vào số những kẻ đi xuống huyệt; Tôi khác nào một người chẳng có ai giúp đỡ, 5 Bị bỏ giữa kẻ chết, Giống như những kẻ bị giết nằm trong mồ mả, Mà Chúa không còn nhớ đến, Là kẻ bị truất khỏi tay Chúa. 6 Chúa đã để tôi nằm nơi hầm cực sâu, Tại chốn tối tăm trong vực thẳm".
(2) Hê man có cảm giác mình giống như một người chết đuối (a drowning man), bị chìm sâu vào bên dưới các lượn sóng cuộn lạnh lùng (cold waves and billows).
(Thi 88:7) "Cơn giận Chúa đè nặng trên tôi, Chúa dùng các lượn sóng Chúa làm tôi cực nhọc".
(Thi 88:16-17) "16 Sự giận dữ Chúa trôi trác tôi, Sự hãi hùng Chúa đã trừ diệt tôi. 17 Hằng ngày các điều ấy vây quanh tôi như nước, Cùng nhau bao phủ tôi".
(3) Hê man có cảm giác mình giống như một người ô uế (a defiled man) đau xót lặng lẽ nhìn mọi người xa lánh và bỏ ông ta lại một mình (run away and leave him alone).
(Thi  88:8) "Chúa khiến những kẻ quen biết tôi lìa xa tôi, Làm tôi thành một vật gớm ghiếc cho họ; Tôi bị cấm cố, không ra được".
(4) Hê man có cảm giác mình giống như một người mà ngay cả đến các bạn bè thân yêu nhất (closest friends) cũng muốn xa lánh (flee from him) không muốn gặp mặt.
(Thi 88:18) "Chúa khiến các bậu bạn lìa xa tôi, Cũng đã làm kẻ quen biết tôi ẩn nơi tối tăm".
(5) Trên tất cả, Hê man tác giả của Thi thiên 88 có cảm giác mình giống như một người đã bị kết án tử hình (a doomed man), người đã bị Đức Chúa Trời bỏ rơi (whom God had forsaken).
(Thi 88:14-15) "14 Đức Giê-hô-va ôi! vì sao Ngài từ bỏ linh hồn tôi, Và giấu mặt cùng tôi? 15 Tôi bị hoạn nạn hòng chết từ buổi thơ ấu; Tôi mang sự kinh khiếp Chúa, và bị hoảng hồn".

2/ Nhưng, Hê man không đầu hàng (not give up), nhờ đức tin:
(1) Ông đã ngửa trông lên Đức Chúa Trời (he looked by faith to God).
* Đức Chúa Trời của lòng nhân từ (loving-kindness).
* Đức Chúa Trời của sự thành tín (faithfulness); và:
* Đức Chúa Trời của những phép lạ (of wonders).
(Thi 88:10-12) "10 Chúa há vì kẻ chết mà sẽ làm phép lạ sao? Những kẻ qua đời há sẽ chỗi dậy đặng ngợi khen Chúa ư? 11 Sự nhân từ Chúa há sẽ được truyền ra trong mồ mả sao? Hoặc sự thành tín Chúa được giảng trong vực sâu ư? 12 Các phép lạ Chúa há sẽ được biết trong nơi tối tăm sao? Và sự công bình Chúa há sẽ được rõ trong xứ bị bỏ quên ư?".
(2) Ông đã khóc lóc kêu cầu cùng Đức Chúa Trời (cried out to God) và tâm sự cùng Ngài cách chính xác nỗi lòng của ông (told Him just how he felt).
(Thi 88:13-14) "13 Còn tôi, Đức Giê-hô-va ơi, tôi kêu cầu cùng Ngài; Vừa sáng lời cầu nguyện tôi sẽ thấu đến trước mặt Ngài. 14 Đức Giê-hô-va ôi! vì sao Ngài từ bỏ linh hồn tôi, Và giấu mặt Ngài cùng tôi?".

3/ Các cảm xúc của bạn có thể thay đổi (your feelings may change), nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ thay đổi (but God never changes).
Bạn có thể tin cậy Đức Chúa Trời (trust Him) ngay cả khi bạn ở trong cảnh đen tối (even in the darkness); ngay cả khi bạn có cảm giác dường như đang bị chết chìm (you seem to be drowning).

KẾT LUẬN:

1/ Cho dù bạn đang đối diện với những khó khăn, nghịch cảnh như thế nào và cảm giác của bạn là ra sao?

2/ Hãy biết rằng Chúa là thầy tế lễ thượng phẩm lớn (a great high priest), Ngài cảm thương đến sự yếu đuối chúng ta (sympathise with our weakness).
(Hê 4:14-16) "14 Ấy vậy, vì chúng ta có thầy tế lễ thượng phẩm lớn đã trải qua các từng trời, tức là Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời, thì hãy bền giữ đạo chúng ta đã nhận tin. 15 Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội".
* Cảm thương συμπαθέω [sympatheō] (be touched with a feeling of): Cảm thông. Cảm thấy xúc động với nỗi đau của (ai).
* Có cảm giác đau buồn hoặc đồng cảm với những cảm xúc của một người khác (to be affected with the same feeling as another).
* Thương cảm / đồng cảm với (to sympathise with).
* Thông cảm với / có thiện cảm với (to feel for).
* Có lòng thương xót / giàu lòng trắc ẩn đối với (to have compassion on).

3/ Vậy, bạn hãy chờ đợi Đức Chúa Trời (wait for Him). Bạn sẽ nhận được một kết quả xứng đáng với lòng tin cậy (they are worth waiting for).
(Hê 4:16) "Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng"
(Thi 70:4) "Nguyện hết thảy người nào tìm cầu Chúa, Được mừng rỡ vui vẻ nơi Chúa; Nguyện những kẻ yêu mến sự cứu rỗi của Chúa Hằng nói rằng: Đáng tôn Đức Chúa Trời oai nghi thay!".


Mục Sư Trương Hoàng Ứng