(Thi 80:1-19) "1 Hỡi Đấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên, hỡi Đấng dẫn dắt Gia-cốp như bầy chiên, Hãy lắng tai nghe. Hỡi Đấng ngự trên chê-ru-bin, Hãy sáng sự rực rỡ Ngài ra. 2 Trước mặt Ép-ra-im, Bên-gia-min, và Ma-na-se, xin hãy giục giã năng lực Ngài, Và đến cứu chúng tôi. 3 Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy đem chúng tôi lại, Và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu. 4 Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, Chúa giận lời cầu nguyện của dân Chúa cho đến chừng nào? 5 Chúa đã nuôi chúng nó bằng bánh giọt lệ, Và cho chúng nó uống nước mắt đầy đấu. 6 Chúa làm chúng tôi thành bia tranh cạnh cho kẻ lân cận chúng tôi, Và kẻ thù nghịch cùng nhau cười nhạo chúng tôi. 7 Hỡi Đức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại, Và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu. 8 Từ Ê-díp-tô Chúa đã dời sang một cây nho; Chúa đuổi các dân ra, rồi trồng cây ấy; 9 Cũng xở đất cho nó, Nó bèn châm rễ và bò đầy đất. 10 Các núi bị bóng nó che phủ, Và các nhành nó giống như cây hương nam của Đức Chúa Trời. 11 Các nhành nó gie ra đến biển, Và chồi nó lan đến sông. 12 Vì cớ sao Chúa phá hàng rào nó, Để cho các kẻ đi qua lảy lặt nó? 13 Heo rừng cắn phá nó, Và các thú đồng ăn nó. 14 Đức Chúa Trời vạn quân ôi! xin hãy trở lại, Từ trên trời hãy ngó xuống, đoái xem và thăm viếng cây nho nầy, 15 Là tượt nho mà tay hữu Chúa đã trồng, Và là chồi mà Chúa đã chọn cho mình. 16 Cây nho ấy bị lửa cháy, bị chặt: Vì cớ sự quở trách của mặt Chúa, chúng nó phải hư mất. 17 Nguyện tay Chúa phù hộ người của tay hữu Chúa, Tức là con người mà Chúa đã chọn cho mình: 18 Rồi chúng tôi sẽ không lìa khỏi Chúa nữa. Xin hãy làm cho chúng tôi được sống lại, thì chúng tôi sẽ cầu khẩn danh Chúa. 19 Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại, Làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu".

 

DẪN NHẬP.

 

1/ Nhiều học giả Kinh thánh tin rằng A sáp A sáp אָסָף  ['Âcâph] (Asaph) là tác giả của Thi Thiên 80 (the Psalm is ascribed to Asaph). A sáp là người chỉ huy của một trong các ca đoàn thuộc về người Lê vi của vua Đa vít (leader of one of David's Levitical choirs).

Các Thi thiên do A sáp sáng tác bao gồm: Thi thiên 50 và các Thi thiên khác từ Thi thiên 73 đến Thi thiên 83.

Mặc dầu các Thi thiên 74,75, 79 và 83 cũng được ám chỉ là của A sáp sáng tác (reference to Asaph) nhưng trên thực tế lại do của các con cháu của A sáp sáng tác (descendants of Asaph). Họ là những người đã tiếp nối chức vụ của A sáp (who functioned in his place).

 

2/ A Sáp đã cầu xin Đức Chúa Trời sự phục hồi (restoration) và sự chiếu sáng mặt Ngài (illuminetion) trên dân sự của Ngài.

(Thi 80:3) "Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy đem chúng tôi lại, Và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu".

(Thi 80:7) "Hỡi Đức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại, Và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu".

(Thi 80:19) "Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại, Làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu".

(Dân 6:22-27) "22 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 23 Hãy nói cùng A-rôn và các con trai người mà rằng: Các ngươi phải chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 24 Cầu xin Đức Giê-hô-va ban phước cho ngươi và phù hộ ngươi! 25 Cầu xin Đức Giê-hô-va chiếu sáng mặt Ngài trên ngươi, và làm ơn cho ngươi! 26 Cầu xin Đức Giê-hô-va đoái xem ngươi và ban bình an cho ngươi! 27 Họ phải đặt danh ta trên dân Y-sơ-ra-ên như vầy, thì ta đây sẽ ban phước cho dân đó".

 

3/ Chiếu sáng mặt Ngài (make Your face shine upon):

(1) Động từ אוֹר ['ôwr]: Chiếu sáng (to shine).

* Hoặc cũng có nghĩa là "hiện diện", hay "có mặt" (to be).

* Chiếu sáng mặt Ngài trên (make Your face shine upon): Bày tỏ một sự chấp nhận và ủng hộ (in acceptance and favor).

 

(2) Động từ אוֹר ['ôwr] (to shine): Là một động từ trái nghĩa của động từ סָתַר [sâthar] (to hide): Ẩn mặt, lánh mặt (hide one's face from), hoặc quên, không nhớ đến (forget); hoặc vắng mặt (be absence).

(Thi 13:1) "Đức Giê-hô-va ôi! Ngài sẽ hằng quên tôi cho đến chừng nào? Ngài ẩn mặt cùng tôi cho đến bao giờ?".

(Phục 31:17) "Trong ngày ấy, cơn thạnh nộ ta sẽ phừng lên cùng họ, ta sẽ bỏ họ, giấu mặt ta đi, khiến cho họ bị tiêu nuốt; nhiều sự tai vạ và buồn thảm sẽ xông hãm vào họ. Trong ngày đó họ sẽ nói rằng: Há có phải vì Đức Chúa Trời không ngự giữa tôi, nên những tai vạ nầy xông hãm vào tôi chăng?"

(Phục 32:20) "Ngài có phán: Ta sẽ giấu mặt ta, Để xem sự cuối cùng của chúng nó ra sao; Vì là một dòng dõi gian tà, Là những con cái không có lòng trung tín".

(Ê sai 8:17) "Tôi trông đợi Đức Giê-hô-va, là Đấng ẩn mặt Ngài khỏi nhà Gia-cốp, tôi vẫn ngóng trông Ngài!".

(Ê sai 54:8) "Trong cơn nóng giận, ta ẩn mặt với ngươi một lúc, nhưng vì lòng nhân từ vô cùng, ta sẽ thương đến ngươi, Đấng Cứu chuộc ngươi là Đức Giê-hô-va phán vậy".

(Ê sai 64:7) "Chẳng có ai kêu cầu danh Ngài, hay là gắng sức đặng cầm lấy Ngài; vì Ngài đã ẩn mặt khỏi chúng tôi, để chúng tôi bị tiêu mất bởi tội ác mình".

(Ê xê 39:13) "Bấy giờ các dân tộc sẽ biết rằng nhà Y-sơ-ra-ên đã bị đem đi làm phu tù vì cớ tội lỗi nó, vì cớ nó đã phạm tội nghịch cùng ta. Ấy vì vậy mà ta giấu mặt ta khỏi chúng nó, mà ta đã phó chúng nó trong tay những kẻ nghịch thù, và chúng nó chết hết thảy bởi gươm".

 

(3) Khi Đức Chúa Trời "giấu mặt Ngài" (hide His face) với những người nhờ cậy Ngài, thì họ sẽ bối rối בָּהַל [bâhal] (troubled). Động từ bối rối בָּהַל [bâhal] (troubled) cũng có nghĩa là:

* Bị đau đớn, gặp rắc rối, tranh chấp, phiền phức (troubled).

* Bị tuyệt vọng, mất hết hy vọng (despaired);

* Bị choáng váng, bị mất hết tinh thần (dismayed);

* Bị khiếp sợ, kinh hãi (terrified).

(Thi 30:7) "Hỡi Đức Giê-hô-va, nhờ ơn Ngài núi tôi được lập vững bền; Ngài ẩn mặt đi, tôi bèn bối rối".

(Thi 104:29) "Chúa giấu mặt, chúng nó bèn bối rối, Chúa lấy hơi thở chúng nó lại, chúng nó bèn tắt chết, và trở về bụi đất".

Nhưng khi Ngài chiếu mặt Ngài trên một người (His face shines on a person) thì Phước hạnh và sự giải cứu liền đến (blessing and deliverance come).

(Thi 4:6) "Nhiều người nói: Ai sẽ cho chúng ta thấy phước? Hỡi Đức Giê-hô-va, xin soi trên chúng tôi sự sáng mặt Ngài".

(Thi 31:16) "Cầu xin soi sáng mặt Chúa trên kẻ tôi tớ Chúa, Lấy sự nhân từ Chúa mà cứu vớt tôi".

(Thi 67:1) "Nguyện Đức Chúa Trời thương xót chúng tôi, và ban phước cho chúng tôi, Soi sáng mặt Ngài trên chúng tôi".

(Thi 80:3,7,19) "3 Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy đem chúng tôi lại, Và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu... 7 Hỡi Đức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại, Và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu... 19 Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại, Làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu".

 

4/ A sáp đã vẽ ra hai bức tranh về quốc gia Y sơ ra ên (gave two pictures of the nation) như:

* Một đàn chiên צֹאן [tsô'n] (a flock of sheep) (80:1-7).

* Một cây nho גֶּפֶן [gephen] (a vine) (80:8-19).

 

I/ MỘT BẦY CHIÊN (a flock of sheep) (80:1-7).

(Thi 80:1) "Hỡi Đấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên, hỡi Đấng dẫn dắt Gia-cốp như bầy chiên, Hãy lắng tai nghe. Hỡi Đấng ngự trên chê-ru-bin, Hãy sáng sự rực rỡ Ngài ra".

 

1/ Bầy Chiên צֹאן [tsô'n] (a flock of sheep):

(a) Nghĩa đen: Đàn chiên, cừu (a flock). Một số gia súc cùng một loại, đặc biệt là chiên (a number of domestic animals of one kind esp. sheep).

(Thi 79:13a) "Còn chúng tôi là dân sự Chúa, và là bầy chiên của đồng cỏ Chúa",

(Thi 144:13) "Nguyện kho lẫm chúng tôi được đầy dẫy, Có đủ các thứ lương thực; Nguyện chiên chúng tôi sanh sản hằng ngàn hằng muôn Trong đồng ruộng chúng tôi".

(b) Nghĩa bóng:

* Đàn con trẻ trong một gia đình (a family of children).

* Đám học trò (a number of pupils).

* Một cộng đoàn Cơ đốc nhân hay một nhóm tín đồ ở dưới sự chăm sóc của một người chăn (a Christian conggregation or a body of believers, esp. in relationship to one minister).

(Thi 80:1) "Hỡi Đấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên, hỡi Đấng dẫn dắt Gia-cốp như bầy chiên, Hãy lắng tai nghe. Hỡi Đấng ngự trên chê-ru-bin, Hãy sáng sự rực rỡ Ngài ra".

(Thi 100:3) "Phải biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài".

(Ê xê 30:31) "Bay là chiên của ta, là chiên của đồng cỏ ta; bay là loài người, và ta là Đức Chúa Trời bay, Chúa Giê-hô-va phán vậy".

(Giăng 10:10-11) "10 Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật 11 Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình".

 

2/ Y sơ ra ên giống như một đàn chiên được Đức Chúa Trời dẫn dắt (Israel was like a flock of sheep led by God).

(Thi 77:20) "Chúa cậy tay Môi-se và A-rôn Mà dẫn dắt dân sự Ngài như một đoàn chiên".

(Thi 78:52) "Đoạn Ngài đem dân sự Ngài ra như con chiên. Dẫn dắt họ trong đồng vắng như một bầy chiên".

(Thi 100:3) "Phải biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài".

 

3/ Nhưng Y sơ ra ên là những con chiên bướng bỉnh (but they were wayward sheep). Họ đã không bước theo sự dẫn dắt của người chăn (not follow the Shepherd). Do đó:

(a) Thay vì họ được an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi (green pastures) và mé nước bình tịnh (still waters).

(Thi 23:2) "Ngài khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi, Dẫn tôi đến mé nước bình tịnh".

(b) Họ đã phải chịu những giọt nước mắt (tears) và bị sỉ nhục (reproach) bởi kẻ thù.

(Thi 80:5) "Chúa đã nuôi chúng nó bằng bánh giọt lệ, Và cho chúng nó uống nước mắt đầy đấu".

 

II/ MỘT CÂY NHO (a vine) (80:8-19).

(Thi 80:8) "Từ Ê-díp-tô Chúa đã dời sang một cây nho; Chúa đuổi các dân ra, rồi trồng cây ấy".

 

1/ Cây nho גֶּפֶן [gephen] (a vine):

(1) Ngữ nghĩa: Danh từ גֶּפֶן [gephen] (a vine). Có hai nghĩa:

* Sự uốn cong, hay sự cúi xuống, khom người (bending).

* Sự xoắn lại, cuộn lại hoặc quấn quanh (twinning).

(2) Tự nghĩa: Cây nho. Loại cây thân thảo, có thân cứng, bò dưới đất hoặc leo trên giàn (a climbing or trailing woody-stemmed plant, bearing grapes).

 

2/ Bức tranh Y sơ ra ên như một cây nho trong Thi thiên 80 tương tự như câu chuyện mà Ê sai và Đức Chúa Giê su đã kể.

(Ê sai 5:1-7) "1 Ta sẽ hát cho bạn rất yêu dấu ta một bài ca của bạn yêu dấu ta về việc vườn nho người. Bạn rất yêu dấu ta có một vườn nho ở trên gò đất tốt. 2 Người khai phá ra; cất bỏ những đá; trồng những gốc nho xinh tốt; dựng một cái tháp giữa vườn, và đào một nơi ép rượu. Vả, người mong rằng sẽ sanh trái nho; nhưng nó lại sanh trái nho hoang. 3 Hỡi dân ở Giê-ru-sa-lem cùng người Giu-đa, vậy thì bây giờ ta xin các ngươi hãy đoán xét giữa ta với vườn nho ta. 4 Có điều chi nên làm cho vườn nho ta mà ta không làm cho nó chăng? Cớ sao khi ta mong sanh trái nho, thì nó lại sanh trái nho hoang vậy? 5 Nầy, ta sẽ bảo các ngươi về điều ta định làm cho vườn nho ta: Ta phá rào, nó sẽ bị cắn nuốt; ta hạ tường xuống, nó sẽ bị giày đạp. 6 Ta sẽ để nó hoang loạn, chẳng tỉa sửa, chẳng vun xới; nhưng tại đó sẽ mọc lên những gai gốc và chà chuôm; ta lại truyền cho mây đừng làm mưa xuống trên nó nữa. 7 Vả, vườn nho của Đức Giê-hô-va vạn quân, ấy là nhà Y-sơ-ra-ên, và những người của Giu-đa tức là cây mà Ngài ưa thích. Ngài trông họ được công chánh, mà nầy, có sự bạo ngược; trông được công bình, mà nầy, có tiếng kêu la".

(Mat 21:28-46) "28 Các ngươi nghĩ làm sao? Một người kia có hai đứa con trai; nói cùng đứa thứ nhất, mà rằng: Con ơi, bữa nay con hãy ra làm vườn nho. 29 Đứa ấy thưa rằng: Vâng; rồi không đi. 30 Đoạn, người cha đi đến đứa thứ hai, cũng bảo như vậy. Đứa nầy thưa rằng: Tôi không muốn đi. Nhưng sau ăn năn, rồi đi. 31 Trong hai con trai đó, đứa nào làm theo ý muốn của cha? Họ đáp rằng: Đứa thứ hai. Đức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, những kẻ thâu thuế và phường đĩ điếm sẽ được vào nước Đức Chúa Trời trước các ngươi. 32 Vì Giăng đã theo đường công bình đến cùng các ngươi, nhưng các ngươi không tin, còn những kẻ thâu thuế và phường dĩ điếm đã tin người; và các ngươi, khi đã thấy điều ấy, sau cũng không ăn năn đặng tin người. 33 Hãy nghe lời ví dụ khác. Có người chủ nhà kia, trồng một vườn nho, rào chung quanh, ở trong đào một cái hầm ép rượu, và cất một cái tháp; rồi cho những kẻ trồng nho mướn, và đi qua xứ khác. 34 Đến mùa hái trái, người chủ sai đầy tớ đến cùng bọn trồng nho, đặng thâu hoa lợi. 35 Bọn trồng nho bắt các đầy tớ, đánh người nầy, giết người kia, và ném đá người nọ. 36 Người chủ lại sai đầy tớ khác đông hơn khi trước; thì họ cũng đối đãi một cách. 37 Sau hết, người chủ sai chính con trai mình đến cùng họ, vì nói rằng: Chúng nó sẽ kính trọng con ta. 38 Nhưng khi bọn trồng nho thấy con đó, thì nói với nhau rằng: Người nầy là kẻ kế tự đây; hè! hãy giết nó đi, và chiếm lấy phần gia tài nó. 39 Họ bèn bắt con ấy, quăng ra ngoài vườn nho, và giết đi. 40 Vậy, khi người chủ vườn nho đến, thì sẽ xử với bọn làm vườn ấy thể nào? 41 Chúng trả lời rằng: Người chủ sẽ diệt đồ hung ác ấy cách khổ sở, và cho bọn trồng nho khác mướn vườn ấy, là kẻ sẽ nộp hoa lợi lúc đến mùa. 42 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Các ngươi há chưa hề đọc lời trong Kinh Thánh: Hòn đá đã bị người xây nhà bỏ ra, Trở nên đá đầu góc nhà; Ấy là việc Chúa làm, Và là một sự lạ trước mắt chúng ta, hay sao? 43 Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó. 44 Kẻ nào rơi trên hòn đá ấy sẽ bị giập nát, còn kẻ nào bị đá ấy rớt nhằm thì sẽ tan tành như bụi. 45 Các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si nghe những lời ví dụ đó, thì biết Ngài nói về mình. 46 Họ bèn tìm cách để bắt Ngài; song sợ thiên hạ vì thiên hạ tôn Ngài là đấng tiên tri".

 

2/ Y sơ ra ên vốn là một vườn nho sai trái (a fruitful vineyard) cho đến khi quốc gia nầy quay lưng lại với Đức Chúa Trời  (turned from the Lord) và bắt đầu thờ phượng các thần của các quốc gia khác (began to worship the gods of the nations).

(Thi 80:8-11) "8 Từ Ê-díp-tô Chúa đã dời sang một cây nho; Chúa đuổi các dân ra, rồi trồng cây ấy; 9 Cũng xở đất cho nó, Nó bèn châm rễ và bò đầy đất. 10 Các núi bị bóng nó che phủ, Và các nhành nó giống như cây hương nam của Đức Chúa Trời. 11 Các nhành nó gie ra đến biển, Và chồi nó lan đến sông".

(Thi 80:15) "Là tượt nho mà tay hữu Chúa đã trồng, Và là chồi mà Chúa đã chọn cho mình".

 

3/ Đức Chúa Trời đã xử dụng chính các quốc gia nầy để sửa phạt dân sự của Ngài (to discipline His people), và phá hủy vườn nho của Ngài (and destroy the vineyard).

(Thi 80:6) "Chúa làm chúng tôi thành bia tranh cạnh cho kẻ lân cận chúng tôi, Và kẻ thù nghịch cùng nhau cười nhạo chúng tôi".

(Thi 80:12-13) "12 Vì cớ sao Chúa phá hàng rào nó, Để cho các kẻ đi qua lảy lặt nó? 13 Heo rừng cắn phá nó, Và các thú đồng ăn nó".

(Thi 80:16) "Cây nho ấy bị lửa cháy, bị chặt: Vì cớ sự quở trách của mặt Chúa, chúng nó phải hư mất".

 

4/ Lời cầu nguyện trong các câu 17-18:

(1) Đã được nhậm một phần (partially answered) khi một số người trong dân sự hồi hương sau khi bị làm nô lệ.

(Thi 80:17-18) "17 Nguyện tay Chúa phù hộ người của tay hữu Chúa, Tức là con người mà Chúa đã chọn cho mình: 18 Rồi chúng tôi sẽ không lìa khỏi Chúa nữa. Xin hãy làm cho chúng tôi được sống lại, thì chúng tôi sẽ cầu khẩn danh Chúa".

(2) Nhưng lời cầu nguyện được hiện thực hoàn toàn trong Chúa Giê su (it is fully in Jesus Christ).

(Giăng 15:5-6) "5 Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong ta và ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được. 6 Nếu ai chẳng cứ trong ta thì phải ném ra ngoài, cũng như nhánh nho; nhánh khô đi, người ta lượm lấy, quăng vào lửa, thì nó cháy".

 

KẾT LUẬN.

 

Dân sự của Đức Chúa Trời ngày hôm nay là:

(a) Chiên trong bầy (sheep in the flock) của Đức Chúa Giê su.

(Giăng 10:11) "Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình".

(Giăng 10:14-16) "14 Ta là người chăn hiền lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta, 15 cũng như Cha biết ta và ta biết Cha vậy; ta vì chiên ta phó sự sống mình. 16 Ta còn có chiên khác chẳng thuộc về chuồng này; ta cũng phải dẫn nó về nữa. Chiên đó sẽ nghe tiếng ta, rồi sẽ chỉ có một bầy, và một người chăn mà thôi".

 

(b) Và là các nhánh nho trong cây nho (and branches in the vine).

(Giăng 15:1-6) "1 Ta là gốc nho thật, Cha ta là người trồng nho. 2 Hễ nhánh nào trong ta mà không kết quả thì Ngài chặt hết; và Ngài tỉa sửa những nhánh nào kết quả, để được sai trái hơn. 3 Các ngươi đã được trong sạch, vì lời ta đã bảo cho. 4 Hãy cứ ở trong ta, thì ta sẽ ở trong các ngươi. Như nhánh nho, nếu không dính vào gốc nho, thì không tự mình kết quả được, cũng một lẽ ấy, nếu các ngươi chẳng cứ ở trong ta, thì cũng không kết quả được. 5 Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong ta và ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được. 6 Nếu ai chẳng cứ trong ta thì phải ném ra ngoài, cũng như nhánh nho; nhánh khô đi, người ta lượm lấy, quăng vào lửa, thì nó cháy".

 

(c) Vậy, chúng ta đừng có đánh mất các phước hạnh đã được ban cho (do not take our blessings for granted).

 

(d) Đức Chúa Trời đang tìm kiếm nơi dân sự Ngài sự trung thành và sự kết quả (He is seeking faithfulness and fruitfulness).


Mục Sư Trương Hoàng Ứng