(Thi 77:1-20) "1 Tôi sẽ kêu cầu cùng Đức Chúa Trời, Phát tiếng hướng cùng Đức Chúa Trời; Ngài ắt sẽ lắng tai nghe. 2 Trong Ngài gian truân tôi tìm cầu Chúa; Ban đêm tay tôi giơ thẳng lên không mỏi; Linh hồn tôi không chịu an ủi. 3 Tôi nhớ đến Đức Chúa Trời, bèn bồn chồn; Than thở, và thần linh tôi sờn mỏi. 4 Chúa giữ mí mắt tôi mở ra; Tôi bị bối rối, không nói được. 5 Tôi suy nghĩ về ngày xưa, Về các năm đã qua. 6 Ban đêm tôi nhắc lại bài hát tôi; Tôi suy gẫm trong lòng tôi, Và thần linh tôi tìm tòi kỹ càng. 7 Chúa há sẽ từ bỏ đến đời đời ư? Ngài há chẳng còn ban ơn nữa sao? 8 Sự nhân từ Ngài há dứt đến mãi mãi ư? Lời hứa của Ngài há không thành đời đời sao? 9 Đức Chúa Trời há quên làm ơn sao? Trong cơn giận Ngài há có khép lòng thương xót ư? 10 Tôi bèn nói: Đây là tật nguyền tôi; Nhưng tôi sẽ nhớ lại các năm về tay hữu của Đấng Chí cao. 11 Tôi sẽ nhắc lại công việc của Đức Giê-hô-va, Nhớ đến các phép lạ của Ngài khi xưa; 12 Cũng sẽ ngẫm nghĩ về mọi công tác Chúa, Suy gẫm những việc làm của Ngài. 13 Hỡi Đức Chúa Trời, chuyển động Chúa ở trong nơi thánh Có thần nào lớn bằng Đức Chúa Trời chăng? 14 Chúa là Đức Chúa Trời hay làm phép lạ, Đã tỏ cho biết quyền năng Chúa giữa các dân. 15 Chúa dùng cánh tay mình mà chuộc dân sự Chúa, Tức là con trai của Gia-cốp và của Giô-sép. 16 Hỡi Đức Chúa Trời, các nước đã thấy Chúa; Các nước đã thấy Chúa, bèn sợ; Những vực sâu cũng rúng động. 17 Các mây đổ ra nước, Bầu trời vang ra tiếng. Và các tên Chúa bay đây đó. 18 Tiếng sấm Chúa ở trong gió trốt; Chớp nhoáng soi sáng thế gian; Đất bèn chuyển động và rung rinh. 19 Con đường Chúa ở trong biển, Các lối Chúa ở trong nước sâu, Còn các dấu bước Chúa không ai biết đến. 20 Chúa cậy tay Môi-se và A-rôn Mà dẫn dắt dân sự Ngài như một đoàn chiên".

 

DẪN NHẬP:

 

1/ Thi thiên 77 là những sự suy xét của A sáp אָסָף  ['Âcâph] (Asaph) về những việc mà Đức Chúa Trời đã làm cho dân sự Ngài trong quá khứ, điều đó đã đem lại cho ông sự an ủi khi ông đang ở trong một thời điểm của sự khốn khổ lớn (comforting reflections in a time of great distress).

 

2/ Rất nhiều người tin rằng A sáp là tác giả của Thi Thiên 77 (the Psalm is ascribed to Asaph), ông là người chỉ huy của một trong các ca đoàn thuộc về người Lê vi của vua Đa vít (leader of one of David's Levitical choirs).

Các Thi thiên do A sáp sáng tác bao gồm: Thi thiên 50 và các Thi thiên khác từ Thi thiên 73 đến Thi thiên 83.

 

3/ Có người đã mô tả dòng tư tưởng của Thi Thiên 77 với bốn chữ (đều bắt đầu bằng phụ âm "S" trong Anh ngữ).

* Thở dài (sighting). Câu 1-6.

* Chìm đắm (sinking). Câu 7-10.

* Ca hát (singing). Câu 11-15.

* Bay vút lên (soaring). Câu 16-20.

 

I/ GIAN TRUÂN VÀ ĐAU KHỔ (trouble and despair).

 

1/ Tác giả Thi thiên 76 đã than thở về:

* Những ngày gian truân buồn thảm (joyless days of trouble). Và:

* Những đêm không ngủ vì sờn mỏi tuyệt vọng (sleepless nights of despair).

(Thi 77:1-3) "1 Tôi sẽ kêu cầu cùng Đức Chúa Trời, Phát tiếng hướng cùng Đức Chúa Trời; Ngài ắt sẽ lắng tai nghe. 2 Trong ngày gian truân tôi tìm cầu Chúa; Ban đêm tay tôi giơ thẳng lên không mỏi; Linh hồn tôi không chịu an ủi. 3 Tôi nhớ đến Đức Chúa Trời, bèn bồn chồn; Than thở, và thần linh tôi sờn mỏi".

 

(1) Gian truân צָרָה [tsârâh] (trouble): Tình trạng không yên ổn.

(Thi 77:2) "Trong ngày gian truân tôi tìm cầu Chúa; Ban đêm tay tôi giơ thẳng lên không mỏi; Linh hồn tôi không chịu an ủi".

(a) Nghĩa nguyên thủy: Chật hẹp, hạn chế (narrow); gay go, căng thẳng, khó khăn, khắc khe (tight).

(b) Nghĩa đen: Tai nạn, tật bịnh (tribulation); sự khó khăn, rắc rối (difficulty); sự bất tiện, bực mình (inconvenience); cảnh cùng quẩn, khốn khó (distress); sự đau đớn, khổ sở (affliction); sự phiền nhiễu, lo âu (vexation); cảnh bất lợi không may (adversity); sự thống khổ, sầu não (anguish).

(Sáng 41:51) "Giô-sép đặt tên đứa đầu lòng là Ma-na-se, vì nói rằng: Đức Chúa Trời đã làm cho ta quên điều cực nhọc, và cả nhà cha ta".

(Gióp 5:6-7) "6 Vì sự hoạn nạn chẳng phải từ bụi cát sanh ra, Sự khốn khó chẳng do đất nảy lên; 7 Nhưng loài người sanh ra để bị khốn khó, Như lằn lửa bay chớp lên không".

(Ê xê 32:9) "Ta sẽ làm bối rối lòng nhiều dân khi ta sẽ sao sự hủy diệt của ngươi ra trong các dân tộc, trong các nước mà ngươi chưa biết đến".

(Thi 46:1) "Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân".

(Mat 2:3) "Nghe tin ấy, vua Hê-rốt cùng cả thành Giê-ru-sa-lem đều bối rối".

(Mat 6:34) "Vậy, chớ lo lắng chi về ngày mai; vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai. Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày ấy".

(Giăng 14:1) "Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa".

 

(2) Sờn mỏi עָטַף [ `âtaph] (overwhelmed]: Mệt nhoài. Bị áp đảo, bị khuất phục, không sao chống lại được.

(Thi 77:3) "Tôi nhớ đến Đức Chúa Trời, bèn bồn chồn; Than thở, và thần linh tôi sờn mỏi".

(a) Nghĩa nguyên thủy: Bao phủ (to shroud).

(b) Nghĩa đen: Tiểu tụy (fail); yếu ớt (feeble); mơ hồ (faint); bất tỉnh (swoon). Thiếu hoặc mất sức sống (lose or lack vitality).

(Thi 6:2) "Hỡi Đức Giê-hô-va, xin thương xót tôi, vì tôi yếu mỏn; Lạy Đức Giê-hô-va, xin chữa tôi, vì xương cốt tôi run rẩy".

(c) Nghĩa bóng: Mòn mỏi (languish).

(Thi 142:2-3) "2 Ở trước mặt Ngài tôi tuôn đổ sự than thở tôi, Bày tỏ sự gian nan tôi. 3 Khi tâm hồn nao sờn trong mình tôi, Thì Chúa đã biết nẻo đàng tôi. Trên con đường tôi đi, Chúng nó gài kín một cái bẫy".

(Thi 143:3-4) "3 Kẻ thù nghịch đã đuổi theo linh hồn tôi, Giày đạp mạng sống tôi dưới đất; Nó làm cho tôi phải ở nơi tối tăm, Khác nào kẻ đã chết từ lâu rồi. 4 Vì vậy, thần linh tôi nao sờn, Tấm lòng sầu não trong mình tôi".

 

3/ Tác giả Thi thiên 77 đã thao thức thâu đêm để truy vấn lý do, và tìm biết tại sao ông lại bị hoạn nạn và đau khổ như vậy?

(Thi 77:4-6) "4 Chúa giữ mí mắt tôi mở ra; Tôi bị bối rối, không nói được. 5 Tôi suy nghĩ về ngày xưa, Về các năm đã qua. 6 Ban đêm tôi nhắc lại bài hát tôi; Tôi suy gẫm trong lòng tôi, Và thần linh tôi tìm tòi kỹ càng".

(1) Sự hoạn nạn không phải do lòng vô tín (not because of unbelief) nhưng do bởi đức tin (but because of faith). Bởi vì, ông đã tin cậy Đức Chúa Trời (he believed in the Lord), ông đã vật lộn với chính bản thân và với Đức Chúa Trời (he wrestled with himself and with God)

(2) Nhưng tác giả Thi thiên 77 có thể đã không hiểu biết tại sao (he could not understand why) Đức Chúa Trời không giữ lời hứa của Ngài (the Lord did not keep His promises), và tại sao Ngài không giải cứu dân sự của Ngài khỏi cảnh làm nô lệ (did not deliver His people from bondage).

(Thi 77:7-9) "7 Chúa há sẽ từ bỏ đến đời đời ư? Ngài há chẳng còn ban ơn nữa sao? Sự nhân từ Ngài há dứt đến mãi mãi ư? Lời hứa của Ngài há không thành đời đời sao? 9 Đức Chúa Trời há quên làm ơn sao? Trong cơn giận Ngài há có khép lòng thương xót ư?".

 

II/ CHÚNG TA SẼ LÀM GÌ TRONG MỘT HOÀN CẢNH NHƯ THẾ? (What do we do in a situation like that?).

 

1/ Dĩ nhiên, chúng ta sẽ phải:

(1) Đưa tay hướng về Đức Chúa Trời mà cầu nguyện thâu đêm (reach out to Him in the night seasons).

(Thi 77:1) "Tôi sẽ kêu cầu cùng Đức Chúa Trời, Phát tiếng hướng cùng Đức Chúa Trời; Ngài ắt sẽ lắng tai nghe".

(Thi 3:4) "Tôi lấy tiếng tôi mà kêu cầu Đức Giê-hô-va, Từ núi thánh Ngài đáp lời tôi.

(a) Kêu cầu צָעַק [tsâ`aq] (cry): Kêu la, khóc lóc. Kêu van cùng Đức Chúa Trời để tìm ơn thương xót (cry out to Him for mercy).

(Thi 77:1) "Tôi sẽ kêu cầu cùng Đức Chúa Trời, Phát tiếng hướng cùng Đức Chúa Trời; Ngài ắt sẽ lắng tai nghe".

* Nghĩa nguyên thủy: Bật lên hay thốt lên tiếng la hét inh tai (to shriek).

* Nghĩa đen: Công bố (proclaim) cách chính thức hoặc công khai (announce or declare publicly or officially).

* Nghĩa bóng: Khóc, kêu gào, kêu la, kêu xin (cry).

+ Tạo ra những âm thanh lớn hoặc tiếng kêu thét, đặc biệt dùng để bày tỏ sự đau đớn hay nỗi sầu khổ (make a loud or shrill sound, esp. to express pain, grief, etc.).

+ Hoặc để cầu xin sự cứu giúp (or to appeal for help) thường có sự tuôn tràn giọt lệ (shed tears).

(Ca 2:18-20) "18 Lòng dân ngươi kêu van đến Chúa. Hỡi tường thành con gái Si-ôn, hãy cho nước mắt ngươi ngày đêm chảy như sông! Đừng cho nghỉ ngơi; con ngươi mắt ngươi chẳng thôi. 19 Hãy chổi dậy kêu van lúc ban đêm, vừa đầu các phiên canh; Đổ lòng ra như nước ở trước mặt Chúa. Hãy giơ tay hướng về Chúa vì sự sống con nhỏ ngươi, chúng nó ngất đi vì đói nơi góc phố. 20 Hỡi Đức Giê-hô-va, xin đoái xem! Ngài đã hề đãi ai như thế? Đàn bà há ăn trái ruột mình, tức con cái ẵm trong tay ư? Thầy tế lễ cùng tiên tri, há nên giết trong nơi thánh Chúa ư?".

(Giê 14:17) "Ngươi khá bảo cho chúng nó lời nầy: Mắt ta rơi lụy đêm ngày chẳng thôi; vì gái đồng trinh của dân ta bị tồi tàn, bị thương rất là đau đớn".

(b) Đưa tay פָּרַשׂ [paras] (stretch forth): Vươn lên, giơ lên, mở rộng ra.

(Thi 77:2a) "Trong Ngài gian truân tôi tìm cầu Chúa; Ban đêm tay tôi giơ thẳng lên không mỏi".

(Thi 88:9) "Mắt tôi hao mòn vì hoạn nạn; Đức Giê-hô-va ơi, hằng ngày tôi cầu khẩn Ngài, Và giơ tay lên hướng cùng Ngài".

(Thi 134:1-2) "1 Hỡi các tôi tớ Đức Giê-hô-va, là kẻ ban đêm đứng tại nhà Ngài, Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va! 2 Hãy giơ tay lên hướng về nơi thánh, Và ngợi khen Đức Giê-hô-va!".

(Thi 143:6) "Tôi giơ tay lên hướng về Chúa; Lòng tôi khát khao Chúa như đất khô khan vậy".

(Gióp 11:13) "Vậy, nếu dọn lòng cho xứng đáng, Và giơ tay mình ra hướng về Chúa".

(Ê sai 1:15) "Vậy nên, khi các ngươi giơ tay, thì ta che mắt khỏi các ngươi. Khi các ngươi cầu nguyện rườn rà, ta chẳng thèm nghe. Tay các ngươi đầy những máu".

(Xuất 9:29,33) "29 Môi-se bèn đáp rằng: Vừa khi tôi ra khỏi thành, tôi sẽ giơ tay lên Đức Giê-hô-va, sấm sét sẽ lặng, mưa đá sẽ tan, hầu cho bệ hạ biết rằng trái đất thuộc về Đức Giê-hô-va... 33 Vậy, Môi-se lui khỏi Pha-ra-ôn, đi ra thành, giơ tay lên Đức Giê-hô-va, sấm sét và mưa đá tạnh, mưa bèn ngớt hột trên mặt đất".

(I Vua 8:22-23) "22 Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, bèn giơ tay lên trời, mà rằng: 23 Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! hoặc trên trời cao kia, hoặc dưới đất thấp này, chẳng có một thần nào giống như Chúa. Chúa giữ sự giao ước và lòng nhân từ với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ nào hết lòng đi ở trước mặt Chúa".

(E xơ ra 9:5-6) "5 Đến giờ dâng của lễ buổi chiều, ta đứng dậy khỏi nơi khổ nhục mình, áo trong và áo tơi ta xé rách; ta quì gối xuống, giơ tay ra hướng về Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta, 6 mà thưa với Ngài rằng: Ồ, Đức Chúa Trời tôi! tôi hổ ngươi thẹn mặt, chẳng dám ngước mặt lên Ngài, là Đức Chúa Trời tôi; vì gian ác chúng tôi đã thêm nhiều quá đầu chúng tôi, và tội chúng tôi cao lớn tận trời".

(I Tim 2:8) "Vậy, ta muốn những người đàn ông đều giơ tay thánh sạch lên trời, mà cầu nguyện khắp mọi nơi, chớ có giận dữ và cãi cọ".

(2) Tỏ bày cùng Đức Chúa Trời chính xác cảm xúc của chúng ta (and tell God just how you feel).

(Thi 77:2) "2 Trong Ngài gian truân tôi tìm cầu Chúa; Ban đêm tay tôi giơ thẳng lên không mỏi; Linh hồn tôi không chịu an ủi. 3 Tôi nhớ đến Đức Chúa Trời, bèn bồn chồn; Than thở, và thần linh tôi sờn mỏi".

 

(3) Nhưng chúng ta đừng từ chối sự an ủi của Đức Chúa Trời mà Ngài sai đến (but do not refuse the comfort that He sends).

(Thi 77:2b) "Linh hồn tôi không chịu an ủi".

(a) An ủi נָחַם [nâcham] (comfort): Làm khuây khỏa.

* Nghĩa nguyên thủy: Thở dài (sigh). Thở ra một hơi dài, nghe thấy được, biểu hiện của sự buồn rầu, mệt mỏi, khao khát (emit a long deep audible breath expressive of sadness, weariness, longing, relief, etc.).

* Nghĩa đen: Tỏ lòng thương xót (pity); khích lệ (console); an ủi (comfort).

+ Mang đến sự an ủi hay thông cảm đối với ai đang thất vọng hay bất hạnh (comfort, esp. in grief or disappointment).

+ Đem đến sự sự khuây khỏa cho ai đang khổ sở, đau đớn, lo âu (relief in affliction).

(Sáng 37:35) "Hết thảy con trai, con gái hiệp lại an ủi người, nhưng không chịu; bèn nói rằng: Ta để tang luôn xuống chốn âm phủ cùng con ta! Ấy đó, cha Giô-sép khóc than chàng như vậy".

(Thi 119:82) "Mắt tôi hao mòn vì mong ước lời Chúa; Tôi nói: Bao giờ Chúa sẽ an ủi tôi?".

+ Giúp đỡ hay làm ơn cho ai đang đau khổ (consoles or helps one).

(II Sam 10:2) "Đa-vít nói: Ta muốn làm ơn cho Ha-nun, con trai của Na-hách, như cha người đã làm ơn cho ta. Vậy, Đa-vít sai tôi tớ mình đi đến an ủi người về sự chết của cha người; các tôi tớ của Đa-vít đến trong xứ của dân Am-môn".

(Ê sai 12:1-2) "1 Trong ngày đó, ngươi sẽ nói rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi cảm tạ Chúa; vì Chúa vốn giận tôi, nhưng cơn giận Chúa đã lánh khỏi, và Chúa yên ủi tôi. 2 Nầy, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi; tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi. Vì Đức Giê-hô-va, chính Đức Giê-hô-va, là sức mạnh của tôi, lời ca tụng của tôi; Ngài đã nên sự cứu rỗi tôi".

(Truyền 4:1-6) "1 Ta xây lại, xem xét mọi sự hà hiếp làm ra ở dưới mặt trời; kìa, nước mắt của kẻ bị hà hiếp, song không ai an ủi họ! Kẻ hà hiếp có quyền phép, song không ai an ủi cho kẻ bị hà hiếp! 2 Vậy, ta khen những kẻ chết đã lâu rồi là sướng hơn kẻ còn sống; 3 còn kẻ chưa được sanh ra, chưa thấy những gian ác làm ra dưới mặt trời, ta cho là có phước hơn hai đằng kia. 4 Ta cũng thấy mọi công lao và mọi nghề khéo là điều gây cho người nầy kẻ khác ganh ghét nhau. Điều đó cũng là sự hư không, theo luồng gió thổi. 5 Kẻ ngu muội khoanh tay, ăn lấy thịt mình. 6 Thà đầy một lòng bàn tay mà bình an, hơn là đầy cả hai mà bị lao khổ, theo luồng gió thổi".

(b) Đức Chúa Trời sẽ nhắc chúng ta các công việc và các sự lạ lùng mà Ngài đã làm trong quá khứ (He will remind us of His past works and wonders).

(Thi 77:14) "Chúa là Đức Chúa Trời hay làm phép lạ, Đã tỏ cho biết quyền năng Chúa giữa các dân".

(c) Và mỗi khi chúng ta suy gẫm những điều lạ lùng của Đức Chúa Trời đã làm trong quá khứ, chúng ta sẽ cảm giác tốt hơn (an the more we mediate on them, the better we will feel).

(Thi 77:10b-12) "Nhưng tôi sẽ nhớ lại các năm về tay hữu của Đấng Chí cao. Tôi sẽ nhắc lại công việc của Đức Giê-hô-va, Nhớ đến các phép lạ của Ngài khi xưa; 12 Cũng sẽ ngẫm nghĩ về mọi công tác Chúa, Suy gẫm những việc làm của Ngài".

(d) Suy gẫm הָגָה [hâgâh] (meditate): Ngẫm nghĩ.

* Nghĩa nguyên thủy của động từ הָגָה [hâgâh] (meditate) là động từ הָגִיג [hâgiyg] (muse): Trầm ngâm, suy tưởng.

+ Động từ הָגִיג [hâgiyg] (muse): Suy nghĩ một cách tập trung hoặc sâu sắc, không còn biết gì đến chung quanh (gaze meditatively on).

+ Động từ הָגִיג [hâgiyg] (muse): Tự nói với mình một cách trầm ngâm (say meditatively).

(Thi 5:1) "Hỡi Đức Giê-hô-va, xin lắng tai nghe lời tôi, Xem xét sự suy gẫm tôi".

(Thi 19:14) "Hỡi Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi, và là Đấng cứu chuộc tôi, Nguyện lời nói của miệng tôi, Sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài!".

* Nghĩa đen: Trầm tư mặc tưởng, trù tính, suy xét.

+ Động từ הָגָה [hâgâh] (meditate): Suy nghĩ sâu sắc đặc biệt là về những vấn đề tôn giáo (exercise the mind in contemplation esp. religious).

+ Động từ הָגָה [hâgâh] (meditate): Tập chú suy nghĩ trên một chủ đề (focus on a subject meditatively).

+ Động từ הָגָה [hâgâh] (meditate): Đặt kế hoạch trong đầu óc của mình (plan mentally design).

(Giô suê 1:8) "Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước.

(Thi 1:2) "Song lấy làm vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va, Và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm".

 

III/ A SÁP ĐÃ SUY GẪM VỀ CUỘC XUẤT HÀNH CỦA DÂN Y SƠ RA ÊN RA KHỎI AI CẬP (Asaph mediated on Israel's exodus from Egypt).

(Thi 77:15-20) "Chúa dùng cánh tay mình mà chuộc dân sự Chúa, Tức là con trai của Gia-cốp và của Giô-sép. 16 Hỡi Đức Chúa Trời, các nước đã thấy Chúa; Các nước đã thấy Chúa, bèn sợ; Những vực sâu cũng rúng động. 17 Các mây đổ ra nước, Bầu trời vang ra tiếng. Và các tên Chúa bay đây đó. 18 Tiếng sấm Chúa ở trong gió trốt; Chớp nhoáng soi sáng thế gian; Đất bèn chuyển động và rung rinh. 19 Con đường Chúa ở trong biển, Các lối Chúa ở trong nước sâu, Còn các dấu bước Chúa không ai biết đến. 20 Chúa cậy tay Môi-se và A-rôn Mà dẫn dắt dân sự Ngài như một đoàn chiên".

 

1/ Nhờ suy gẫm về sự xuất hành của dân Y sơ ra ên mà A sáp có được sự nhắc nhở rằng (recalled):

(1) Đức Chúa Trời cũng đã làm cho cuộc hành trình của dân Y sơ ra ên phải bị chậm trễ bởi biển đỏ (God kept the people waiting by the Red Sea).

(Xuất 14:9) "Người Ê-díp-tô và cả ngựa xe, lính kỵ, cùng toán binh của Pha-ra-ôn đều đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên, gặp đang đóng đồn nơi bờ biển, gần Phi-ha-hi-rốt, ngang Ba-anh-Sê-phồn".

(2) Dân sự của Đức Chúa Trời rất sợ hãi (the people were afraid) và nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã quên họ rồi (and certain that God had forgotten them).

(Thi 77:7) "Chúa há sẽ từ bỏ đến đời đời ư? Ngài há chẳng còn ban ơn nữa sao?".

3/ Nhưng sự giải cứu đã đến thật đúng lúc (deliverance came just in the nick of time).

* Đức Chúa Trời đã bày tỏ quyền năng Ngài (He showed His power).

* Và Ngài đã làm bẻ mặt kẻ thù (and humiliated enemy).

(Thi 77:15-16) "15 Chúa dùng cánh tay mình mà chuộc dân sự Chúa, Tức là con trai của Gia-cốp và của Giô-sép. 16 Hỡi Đức Chúa Trời, các nước đã thấy Chúa; Các nước đã thấy Chúa bèn sợ; Những vực sâu cũng rúng động".

(Xuất 14:13-14) "13 Môi-se đáp cùng dân sự rằng: Chớ sợ chi, hãy ở đó, rồi ngày nay xem sự giải cứu Đức Giê-hô-va sẽ làm cho các ngươi; vì người Ê-díp-tô mà các ngươi ngó thấy ngày nay, thì chẳng bao giờ ngó thấy nữa. 14 Đức Giê-hô-va sẽ chiến cự cho, còn các ngươi cứ yên lặng".

 

KẾT LUẬN:

 

1/ Con đường của Chúa là:

* Một con đường thánh (a holy way).

(Thi 77:13a) "Hỡi Đức Chúa Trời, chuyển động Chúa ở trong nơi thánh".

* Một con đường bị che giấu (a hidden way).

(Thi 77:19) "Con đường Chúa ở trong biển, Các lối Chúa ở trong nước sâu, Còn các dấu bước Chúa không ai biết đến".

 

2/ Chúng ta không cần hiểu biết con đường (we need not understand it); mà chỉ bước theo sự dẫn dắt của Chúa (just follow as He leads us).

(Thi 77:20) "Chúa cậy tay Môi-se và A-rôn Mà dẫn dắt dân sự Ngài như một đoàn chiên".

 

3/ Bài Thánh ca 313 Tình yêu vững bền của E.S. Hall và E.O. Exell đã an ủi và khích lệ rất nhiều người.

 

"Tôi không ước mơ thấy rõ con đường, bàn chân tôi bước trong sương.

Tôi chỉ tin cậy Chúa nuôi linh hồn, biết rằng Ngài luôn xót thương.

Tôi không cầu xin trông thấy xa hơn, dù sương mù giăng bốn phương.

Tôi biết suốt đường Chúa luôn đi cùng, mặc cho gió mưa bão bùng".

 

"Tôi đang trải qua những bước trong đời, bàn chân ước đẫm sương rơi.

Trên lối xa vời khó nguy bao hồi, Chúa từng ngày chăm sóc tôi.

Cho tôi được nghe chim hót muôn nơi, được trông ngàn hoa thắm tươi.

Qua hết cõi đời bước tôi xong rồi, nhìn tôi Chúa âu yếm cười".


Mục Sư Trương Hoàng Ứng