Chương trình cứu rỗi loài người của Đức Chúa Trời được thể hiện : Đức Chúa Cha hoạch định, Đức Chúa Con thi hành, Đức Thánh Linh hoàn tất.
Sau khi Chúa Jêsus Phục Sinh, Ngài ở trần thế 40 ngày và hiện ra với các môn đồ. Sau đó Chúa Jêsus thăng thiên về Trời và các môn đồ (sau đó gồm cả những con cái Chúa chúng ta) sẽ nhận lãnh Đức Thánh Linh như Lời Chúa Jêsus phán bảo: “Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần Lẽ Thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi” (Giăng 14:16-17).
Khi một người tin nhận Chúa Jêsus làm Cứu Chúa của mình, thì Đức Thánh Linh hành động ngay như Kinh Thánh minh chứng: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho năng quyền (bởi Đức Thánh Linh) trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài .. sanh bởi Đức Chúa Trời vậy” (Giăng 1:12-13). Cơ Đốc nhân không có giấy khai sinh chứng nhận là “con cái Đức Chúa Trời”, nhưng “Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời” (Rô-ma 8:16). Và bởi Đức Thánh Linh, Cơ Đốc nhân xưng Đức Chúa Trời: “A-ba! Cha!” (Ga-la-ti 4:6). Cơ Đốc nhân trở nên “người thánh và rất yêu dấu của Ngài” (Cô-lô-se 3:12).
Để sống đúng tiêu chuẩn “người thánh và rất yêu dấu của Ngài”, Đức Thánh Linh hướng dẫn Cơ Đốc nhân “ăn ở cách xứng đáng với Chúa, đặng đẹp lòng Ngài mọi đường, nẩy ra đủ các việc lành, càng thêm lên trong sự hiểu biết Đức Chúa Trời, nhờ quyền phép vinh hiển Ngài, được có sức mạnh mọi bề, để nhịn nhục vui vẻ mà chịu mọi sự” (Cô-lô-se 10:11).
Các môn đồ đã được Chúa Jêsus truyền lệnh “Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh” do Chúa ban khi Ngài hiện ra với các môn đồ nơi phòng kín. Kinh Thánh ghi sự kiện này như sau : “Buổi chiều nội ngày đó, là ngày thứ nhất trong tuần lễ, những cửa nơi các môn đồ ở đều đang đóng lại, vì sợ dân Giu-đa, Đức Chúa Jêsus đến đứng chính giữa các môn đồ mà phán rằng: Bình an cho các ngươi! Nói đoạn, Ngài giơ tay và sườn mình cho môn đồ xem. Các môn đồ vừa thấy Chúa thì đầy sự mừng rỡ. Ngài lại phán cùng môn đồ rằng: Bình an cho các ngươi! Cha đã sai ta thể nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy. Khi Ngài phán điều đó rồi, thì hà hơi trên môn đồ mà rằng: Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh” (Giăng 20:19-22).
Trước khi Ngài thăng thiên, Ngài phán lời chót như là một mệnh lệnh cho các môn đồ: “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất” (Công-vụ các Sứ-đồ 1:8).
Người Do Thái có ba ngày lễ trọng đại là lễ Lều Tạm, lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần. Lễ Ngũ Tuần là lễ dâng bông trái đầu mùa, sau lễ Vượt Qua 50 ngày: “Kể từ ngày sau lễ sa-bát (lễ Ngũ Tuần), là ngày đem bó lúa dâng đưa qua đưa lại, các ngươi sẽ tính bảy tuần lễ trọn: các ngươi tính năm mươi ngày cho đến ngày sau của lễ sa-bát thứ bảy, thì phải dâng một của lễ chay mới cho Đức Giê-hô-va. Các ngươi hãy từ nhà mình đem đến hai ổ bánh đặng làm của lễ dâng đưa qua đưa lại; bánh đó làm bằng hai phần mười bột lọc hấp có pha men: ấy là của đầu mùa dâng cho Đức Giê-hô-va” (Lê-vi ký 23:15-115). Chúa Jêsus sống lại, Ngái là “Đấng Christ là trái đầu mùa” (I Cô-rinh-tô 15:23). Các môn đồ đã nhóm lại trong ngày lễ Ngũ Tuần với tinh thần “chờ điều Cha đã hứa” (Công-vụ các Sứ-đồ 1:4). Chúa Jêsus Giáng Sinh tại Bết-lê-hem. Nhưng Chúa Thánh Linh giáng lâm tại Giê-ru-sa-lem, là nơi “lời Đức Giê-hô-va sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem” (Ê-sai 2:3).
Khi Đức Thánh Linh giáng xuống “có tiếng từ trời đến như tiếng gió thổi ào ào” (Công-vụ các Sứ-đồ 2:2). Nhưng đó không phải là “gió” thường có, mà là Đức Thánh Linh giáng lâm đem ơn phước đến cho nhân loại, như “khiến gió ra từ các kho tàng của Ngài” (Thi-thiên 135:7). Gió Thánh Linh không thổi qua đi, không cuốn hút, nhưng “đầy khắp nhà” bao phủ mỗi người. Mọi người đều “chịu phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh” (Công-vụ các Sứ-đồ 1:5). Sau đó, “Các môn đồ thấy lưỡi rời rạc từng cái một, như lưỡi bằng lửa hiện ra, đậu trên mỗi người trong bọn mình” (Công-vụ các Sứ-đồ 2:3). Chú ý “như lưỡi bằng lửa”, chứ không phải “lửa”. “Lưỡi bằng lửa” là ân tứ Thánh Linh ban cho mỗi người và “Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng khác, theo như Đức Thánh Linh cho mình nói” (Công-vụ các Sứ-đồ 2:4). Các môn đồ khởi sự hành động trong ơn và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh.
Ngày nay, Cơ Đốc nhân không cần chờ đợi một ngày lễ Ngũ Tuần. Cơ Đốc nhân chúng ta không cần có kinh nghiệm nhận ân tứ Thánh Linh như các môn đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Cơ Đốc nhân đã có Chúa Thánh Linh, chúng ta chỉ cần kính mến Ngài, vâng phục Ngài và để Ngài tự do hành động qua chúng ta là chúng ta được “đầy dẫy Đức Thánh Linh”. Chúng ta sẽ hầu việc Chúa theo ơn và sự chỉ dạy, dẫn dắt của Chúa Thánh Linh. Mỗi Cơ Đốc nhân cần biết “ơn” (ân tứ) mình có, hầu “chớ chịu ơn Đức Chúa Trời luống công (bản tiếng Anh “Holy Bible New American Standard Bible - in vain có nghĩa là vô ích hay không có kết quả)” (II Cô-rinh-tô 6:1), và “ơn Ngài ban cho tôi cũng không phải là uổng vậy” (I Cô-rinh-tô 15:10).
Việc Cơ Đốc nhân làm khởi đầu để chứng tỏ sinh động bởi Chúa Thánh Linh là “làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất” (Công-vụ các Sứ-đồ 1:8) cho người thân, họ hàng, những người Việt nơi mình cư ngụ, những người trong cùng một sở làm việc. Chúng ta “làm chứng” cho những người đó, đem họ về tin nhận Đức Chúa Jêsus Christ vì Ngài “đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội” (I Ti-mô-thê 1:15) và “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật” (I Ti-mô-thê 2:4).
Một vị Mục Sư mà tôi kính mến ở Hoa Kỳ, đã viết lời sau đây trong tờ truyền đạo đơn số 2024, để nhắc nhở mình và con cái Chúa như sau :
Chỉ một mình Đức Chúa Jêsus có thể cứu cả thế gian
Nhưng Đức Chúa Jêsus không thể cứu cả thế gian một mình
Và Ngài Cơ Đốc nhân đồng công với Ngài bằng cách “làm chứng”. Người đang chia sẻ niềm tin với quý anh chị đã được đọc qua một số sách của vị Mục Sư này, trong đó có cuốn Đạo Nào Cũng Tốt - All Religions Are Equally Good mà con cái Chúa chúng ta có thể dùng để “làm chứng” về Chúa cho người thân, họ hàng, những người Việt nơi mình cư ngụ, những người trong cùng một sở làm việc.
Các môn đồ của Chúa “làm chứng” về Ngài là Nhưng những kẻ nghe không chấp nhận, mà còn “nhạo báng” cho rằng “Họ say rượu mới đó” (Công-vụ các Sứ-đồ 2:13). Những người đó chẳng biết rằng môn đồ của Chúa không “say rượu” nhưng họ đang “say mê” “Cùng với Đức Thánh Linh, là Đấng người nhờ mà nói” (Công-vụ các Sứ-đồ 6:103).
Kinh Thánh dạy Cơ Đốc nhân : “Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh” (Ê-phê-sô 5:16), để nói về “sự cao trọng của Đức Chúa Trời” (Công-vụ các Sứ-đồ 2:11).
Nói về “sự cao trọng của Đức Chúa Trời” là nói “chân lý” được bày tỏ trong Kinh Thánh. Cơ Đốc nhân chân chính thường chăm chỉ đọc, học, suy gẫm lời Kinh Thánh với Đức Thánh Linh, và Ngài là “Thần lẽ thật (Thần Chân Lý)” (Giăng 14:17), “Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật (chân lý)” (Giăng 16:13), và “các ngươi sẽ biết chân lý, và chân lý sẽ buông tha các ngươi” (Giăng 8:32) khỏi luân lý, triết lý đời này. Chúa Jêsus là “chân lý” (Giăng 14:6). Muốn biết rõ “chân lý” nơi Chúa Jêsus, Cơ Đốc nhân cũng phải nhờ đến Đức Thánh Linh như lời Chúa Jêsus phán : “Ấy chính Ngài (Đức Thánh Linh) sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta (“chân lý”) mà rao bảo cho các ngươi.” (Giăng 16:13-14).
Cơ Đốc nhân chẳng những nhận lấy Đức Thánh Linh, mà còn phải “chịu phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh” (Công-vụ các Sứ-đồ 1:5) là sự đắm mình trong Đức Thánh Linh.
Rất tiếc, ngày nay một số con cái chúng ta “quên” sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong mình. Trong thời Cựu Ước, người thuộc về Chúa không làm theo sự chỉ dẫn của Chúa thì “Ngài từ bỏ ngươi” (I Sa-mu-ên 15:23). Trong thời Tân Ước, Cơ Đốc nhân không làm theo sự chỉ dạy của Đức Thánh Đức Thánh Linh, Ngài không “từ bỏ”, song Ngài “buồn”. Lời Kinh Thánh khuyên chúng ta : “Anh em chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì nhờ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc” (Ê-phê-sô 4:30).
Từ ngày bước đi theo Chúa, có lẽ một trong những nhân vật gây ấn tượng cho tôi, một con cái Chúa cao niên, là Ê-tiên, người Giảng Đạo Cho Đến Chết được ghi trong Công-vụ các Sứ-Đồ 6:1 đến 8:3. Ê-tiên giảng đạo có quyền năng và khôn ngoan, khiến những kẻ chống đối “không chống lại nổi với trí khôn người cùng với Đức Thánh Linh, là Đấng người nhờ mà nói” (Công-vụ các Sứ-đồ 6:10).
Theo lời nhận định của một vị Mục Sư ở Hoa Kỳ mà tôi hằng kính mến thì ngày nay, một số Mục Sư “học cao hiểu rộng”, có bằng cấp tiến sĩ hay có một số Giáo Sư dạy Kinh Thánh, khi giảng dạy Kinh Thánh trên bục giảng đều muốn người nghe nhận ra “trí khôn” của mình, nên giảng dạy theo ý mình, và “quên” hẳn “Đức Thánh Linh” khi soạn bài giảng dạy và hẳn nhiên chẳng còn biết tin cậy vào “Đức Thánh Linh, là Đấng người nhờ (tôi) mà nói”.
Quý Mục Sư, Quý Giáo Sư giảng dạy Kinh Thánh phải có “trí khôn” do “học cao hiểu rộng”, hơn thế nữa còn phải biết tin cậy vào Đức Thánh Linh, và “Hãy bước đi theo Thánh Linh” (Ga-la-ti 5:16).
“Trí khôn” dễ nhận ra, nhưng “đầy dẫy Đức Thánh Linh” khó nhận ra. Người tự hào “đầy dẫy Đức Thánh Linh” thường thích khoe “thành tích” trong công việc nhà Chúa. Thật ra thành tích của những vị này trước mắt Chúa chỉ là “một đống” “gỗ, cỏ khô, rơm rạ” (I Cô-rinh-tô 3:12). “Thành tích” nếu có chăng trong đời thì chỉ là một chút “vàng, bạc, bửu thạch” (I Cô-rinh-tô 3:12). (Hết trích dẫn).
Ê-tiên giảng đạo với “trí khôn” và thuận phục “Đức Thánh Linh, là Đấng người nhờ (tôi) mà nói”, kết quả, Ê-tiên bị chống đối và bị ném đá cho đến chết. Nhưng Ê-tiên có sự bình an, Ê-tiên không cầu nguyện xin Chúa cứu mình và cầu nguyện cho những kẻ ném đá: “Lạy Chúa, xin đừng đổ tội nầy cho họ!” (Công-vụ các Sứ-đồ 7:59-60). Ê-tiên đã có tấm lòng như Chúa Jêsus lúc sắp lâm chung. Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu-ca 23:34) và “Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha!” (Lu-ca 23:46). Cơ Đốc nhân đối với Đức Chúa Jêsus và Đức Thánh Linh : “Khá giữ trung tín cho đến chết” (Khải-huyền 2:10).