NGƯỜI ĐƯA THƯ

 

 

Trong xúc cảm bồi hồi, chàng nhanh tay chuẩn bị một ít lương thực rồi bước lên chiến mã. Lệnh vua mời chàng trở lại triều đình. Chiến binh trên chiến mã cùng nhau giong ruổi trên đường về, dù không phải trải qua ngàn chốn sơn khê, chỉ những vùng sa mạc nóng cháy, khô cằn và những con rạch, những khúc sông nho nhỏ để trở về Jerusalem. Mỗi bước chân của ngựa đưa chàng xa dần chiến trường, nơi những bạn chiến sĩ cùng sống chết với nhau bao năm  đang ở lại. Chàng không muốn ra đi, chỉ muốn ở lại cùng chiến đấu với anh em cho quê hương, cho tổ quốc, cho vùng đất hứa đượm sữa và mật, tặng phẩm tuyệt vời, ngọt ngào từ nơí chính tay Đức Chúa Trời. Nhưng lệnh vua là lệnh, chàng phải tuân hành. Người ra đi để trở về Jerusalem nhưng tâm hồn để lại nơi chiến trường. Chàng sẽ được diện kiến minh vương, sẽ báo cáo tình hình chiến trường cho vị anh hùng đệ nhất của Do-Thái. Một anh hùng sẽ đối diện với một anh hùng, vì dù quốc gia có hàng trăm ngàn chiến binh trong lúc hữu sự, nhưng chỉ có 30 chiến sĩ anh hùng, bên trên thiên hạ,  trên cả Do-Thái và tên của chàng nằm trong danh sách 30 người ấy. Dù đó là vinh dự lớn lao, nhưng thật ra, tên cha mẹ đặt cho chàng – Uriah, nghĩa là Đức Chúa Trời là ánh sáng của con - mang lại niềm vui, ý nghĩa cho đời.  Dĩ nhiên, chàng không biết vì sao minh vương phải mời chàng về triều đình thật gấp. Một ngạc nhiên lớn  nhất trong đời đang chờ chàng tại Jerusalem và mỗi một bước ngựa phi mang chàng càng gần với nỗi ngạc nhiên ấy.

Mùa xuân đang đến giữa đất trời. Mùa xuân đang đến giữa đất Do-Thái và mùa xuân đang đến giữa lòng người. Một buổi trưa mùa xuân tại thủ đô Jerusalem, sau buổi ăn trưa thịnh soạn và sau giấc ngủ trưa êm ái, vị minh quân của chàng thong thả dạo bước trên nóc đền vua. Tình cờ, vua chứng kiến cảnh một người đàn bà đang tắm phía bên dưới. Một màn tắm khoả thân đang xảy ra, người tắm không hề biết mình đang có khán giả và khán giả lại không mau mau bước đi nơi khác. Việc sở dĩ trầm trọng hơn vì người tắm khỏa thân này là một người đàn bà đẹp. Rất đẹp. Thông thường các nhà viết sử của Thánh Kinh diễn tả người đàn bà đẹp bằng chữ “đẹp,” nhưng Bathsheba, người đàn bà đẹp này được diễn tả bằng hai chữ “rất đẹp.” Không biết nàng đẹp đến mực nào, nhưng giữa vòng những mỹ nhân của toàn quốc Do-Thái mà được diễn tả rằng “rất đẹp” thì nhan sắc nàng phải vượt bên trên người rất xa. Nếu so sánh với những mỹ nhân của thế kỷ 21, nàng có thể ngang hàng với Elisabeth Taylor hoặc Brigitte Bardot ? Tiếc thay! Tiếc thay! Nàng quá đẹp. Ước gì buổi chiều hôm ấy minh vương gặp một bà già tắm khoả thân thì chắc chắn câu chuyện sẽ chấm dứt rất khác.

Minh vương nhờ người hỏi xem nàng là ai và được biết đó là vợ của Uriah, một trong 30 chiến sĩ lừng danh toàn quốc và chồng nàng đang chiến đấu nơi chiến trường cho quốc gia, dân tộc và cho chính vua nữa. Biết nàng là gái có chồng nhưng minh vương vẫn vời nàng vào cung trong đêm đó.

Đây không phải là một mối tình, đây không phải là câu chuyện của hai người thầm yêu, trộm nhớ bao năm và đến với nhau trong giây phút yếu lòng. Đây chỉ là một phút giây của lòng dục vọng không kềm chế được của một vị minh vương, người đã và đang có nhiều vợ trẻ đẹp tại Jerusalem. Câu chuyện buồn này lên đến mức độ đau thương khi sau đó, Bathsheba báo tin cho vua biết nàng đã thọ thai.

Uriah chàng ơi, chàng được triệu về Jerusalem không phải vì vua muốn biết chuyện chiến trường, nhưng vì vua muốn đưa chàng về với vợ để chàng sẽ phải là tác giả của bào thai chàng không hề biết. Câu chuyện độc đáo giữa bộ ba này sở dĩ vô cùng độc đáo vì đã xảy ra tại Do-Thái, vùng đất thánh của Đức Chúa Trời, nơi Ngài đang cai trị con dân Ngài bằng bộ luật thánh để gìn giữ họ sống trong cộng đồng có yêu thương và cũng có kỷ luật. Luật của Đức Chúa Trời dạy rằng kẻ ngoại tình phải bị ném đá chết. Khi bào thai này lộ ra ai cũng thấy được thì vua phải bị ném đá. Luật Đức Chúa Trời không thiên vị ai.

Uriah chàng ơi, những ai trăn trở, quặn thắt con tim vì câu chuyện đời chàng cũng hiểu rằng nếu chuyện này xảy ra tại một quốc gia khác, nhất là tại Á-Châu, kết quả của câu chuyện sẽ rất khác, vì vua bất khả xâm phạm. Nạn nhân trong cuộc phải giữ im lặng, ai về nhà nấy, chịu lấy phần định mệnh đã đặt cho mình. Chỉ tại vùng đất Do-Thái, dưới luật pháp của Đức Chúa Trời mọi người mới thật sự được bình đẳng dưới luật pháp.

Sau khi thăm hỏi việc chiến trường, vua bảo chàng về cùng vợ và còn cho người mang thức ăn ngon cho hai vợ chồng. Nhưng chuyện không tưởng lại xảy ra. Chàng không về nhà mình nhưng ngủ tại cửa đền vua cùng các tôi tớ vua. Trong kinh hoàng và bối rối, vua phải hỏi chàng mặt đối mặt, sao không về cùng vợ.  Câu trả lời của chàng đã giải thích được thái độ cổ kim hi hữu: “Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên, và Giu-đa, vẫn ở dưới trại, Joab, chúa tôi, luôn với các tôi tớ chúa tôi đương hạ trại nơi đồng trống, còn tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao? Tôi chỉ mạng sống và linh hồn của vua mà thề rằng, tôi chẳng làm một sự như vậy.”

Đây là câu trả lời và lý luận cực kỳ khôn ngoan và đạo đức hơn thiên hạ của một người đang tỉnh. Vua phải dùng đến biện pháp cuối cùng. Vua mời chàng ở lại một ngày nữa và  mời chàng cùng vua ăn uống tưng bừng, phục rượu chàng cho đến khi say. Nhưng chiều tối, chàng lại ngủ trên giường mình với các tôi tớ của vua, không đi xuống nhà thăm vợ. Uriah chàng ơi, người say như chàng vẫn công bình và đạo đức hơn hàng triệu người tỉnh. Nhưng thái độ của chàng đưa vị minh quân vào bước đường cùng.

Sáng hôm sau, chàng lên chiến mã trở lại chiến trường, cầm trong tay bức thư vua gởi cho Joab, tư lệnh quân đội. Chàng không biết nội dung của thư có thể vì thư được niêm phong hay nếu không, người đạo đức hơn người như chàng cũng không xem thư của người khác. Một lần nữa, chàng lại đi vào nơi gió cát, với những đêm mưa gió mịt mờ nơi đầu tuyến, về với bổn phận trách nhiệm của một công dân Do-Thái, cùng anh em đồng đội tại chiến trường, rời Jerusalem không một lời từ giã gia đình, không biết rằng mình cầm trong tay bản án tử hình của chính mình và đây là lần bước ra chiến trường lần cuối. Thư vua gởi cho tư lệnh quân đội đã viết rằng: “Hãy đặt Uriah tại hàng đầu, nơi hiểm nguy hơn hết của chiến trận, rồi hãy rút ra xa người, để người bị đánh và chết đi.”

Khi quân đội Do-Thái vây thành quân nghịch, tư lệnh quân đội, theo lệnh vua, đã đặt chàng vào chỗ hiểm nghèo nhất, nơi quân nghịch hết sức bảo vệ điểm then chốt của thành, và trong cơn cực kỳ nguy hiểm, trong phút giây thập tử nhất sinh, các chiến hữu bên cạnh chàng được lệnh rút đi.

Giữa mùa xuân của đất trời và giữa mùa xuân tươi đẹp của cuộc đời một chiến sĩ lừng danh của quốc gia, chàng đã ngã gục nơi chiến trường. Only the good die young ? Tư lệnh quân đội viết ngay một thư báo cáo cho vua về cái chết của chiến sĩ Uriah, và cả hai người này, trong giòng nước mắt cá sấu, đã ca bài “Cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi” để an ủi lẫn nhau. Theo truyền thống Do-Thái, vợ chàng than khóc chồng trong bảy ngày và sau đó, vua rước nàng về cung làm vợ. Truyện tình của đôi trai tài gái sắc Uriah - Bathsheba chấm dứt cũng vào một ngày xuân tươi đẹp.

Phim cao bồi miền tây hoang dã nổi tiếng của Mỹ quốc “The good, the bad and the ugly” trình bày ba nhân vật khác nhau - the good – the bad - và the ugly và những cuộc đụng độ kinh hoàng nhưng hấp dẫn của họ. Nhưng có bao giờ bạn đã gặp một người mà ba là một, một là ba chưa? Nghĩa là một nhân vật vừa là the good vừa là the bad vừa là the ugly? Bạn chưa găp bao giờ à? Vậy sao? Thật vậy sao? Mỗi ngày, khi nhìn vào gương, bạn nhìn thấy nhân vật độc đáo ấy nhưng bạn không ngờ. Bạn vẫn tưởng mình đang mơ phải không? Trong vô tình, chiến sĩ Uriah trở thành đại diện cho những người ngay bị hại đến mất mạng trên quả địa cầu. Con số người chết oan vì người khác hại chỉ có Đức Chúa Trời nắm rõ và theo thời gian, con số này lên đến hàng triệu, hàng tỷ người. Trong số những kẻ hại người lại có những người công chính như vị minh vương của chàng, trăm năm chỉ dại có một lần. Một người thật chân chính, lương thiện có thể nào trở thành kẻ sát nhân? Hãy lắng tiếng nói vang trong tâm hồn mình người ơi, con tim chân chính khi cần và khi kẹt cũng phải nói dối và có khi đi đến cả giết người nữa. Bạn có biết, hay đã biết rằng Thần của Chúa vẫn dò xét nhân thế để tìm một người công chính, nhưng Ngài tìm mãi vẫn không có, cả thế gian không có lấy một người công chính trước mặt Đức Chúa Trời.

Cái chết của Uriah có ý nghĩa gì? Uriah chết vì ai và chết cho ai? Có phải đây là một cái chết phi nghĩa, vô lý ? Ai sẽ lên tiếng, ai sẽ bênh vực, ai sẽ báo oán cho người chết oan? Gia đình Uriah sẽ nhận lấy trách nhiệm này vì chàng chưa có con ? Có phải Uriah phải ngậm sầu, nuốt tủi trong thế giới này và ngay cả bên kia thế giới ? Uriah ơi, chàng không phải đi trong tăm tối một mình đâu. Đấng cầm quyền cả càn khôn vũ trụ, Quan Án công bình duy nhất trên trời, dưới đất và bên dưới đất lên tiếng và phán quyết không phải chỉ trong câu chuyện người đưa thư, nhưng trong bất cứ câu chuyện bất công nào trên quả địa cầu, vì Ngài là Chủ của vũ trụ, Chủ của chúng ta. Quan Án công bình của nhân loại đã phán rằng “Sự báo thù thuộc về ta. Ta sẽ báo oán.”

Chúa của chúng ta đã sai tiên tri Nathan đến bắt tội vua, với lời mở đầu  thật ngôn khoan về câu chuyện bất công của một nhà giàu có nhiều chiên nhưng không giết chiên mình để đãi khách, lại bắt và giết con chiên bé nhỏ yêu dấu duy nhất của một người nghèo trong xứ. Khi “the good” trong vua nổi giận trước việc bất công nho nhỏ này, Đức Chúa Trời tuyên bố bản án: “Cớ sao ngươi khinh bỉ lời của Đức Jehovah mà làm điều không đẹp lòng Ngài? Ngươi đã dùng gươm giết Uriah... lấy vợ nó làm vợ ngươi... Nên bây giờ, gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi, vì ngươi đã khinh ta, cướp vợ Uriah... Ta sẽ khiến từ nhà ngươi nổi lên những tai họa giáng trên ngươi, ta sẽ bắt các vợ ngươi tại trước mặt ngươi trao cho một người lân cận ngươi, nó sẽ làm nhục chúng nó tại nơi bạch nhật. Vì ngươi đã làm sự kia cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc này trước mặt cả dân sự và tại nơi bạch nhật.”

Vậy mà thế gian này vẫn còn có những người tuyên bố rằng “Trời cao không có mắt.” Quan Án công bình duy nhất của cả nhân loại không chấp nhận tội lỗi, và người có tội phải biết rằng Ngài đã phán “Linh hồn cha cũng như linh hồn con, linh hồn nào phạm tội thì phải chết.” Đức Chúa Trời không thiên vị ai và cán cân công lý của Ngài không bao giờ sai lầm hay nghiêng lệch. Nếu vị minh vương David biết trước án phạt của Đức Chúa Trời, David có dám dời Bathsheba vào cung mình trong đêm đó không? Giết một mạng người nhưng phải trả bằng cái chết bạo động, đau thương của dòng dõi mình. Lấy vợ người trong nơi kín giấu và phải chịu cảnh vợ mình bị hãm hiếp nơi thanh thiên bạch nhật? Giá trả quá đắt cho tội lỗi. Vậy mà nhân thế vẫn tiếp tục phạm tội.

Bạn đã từng bị bắt buộc phải đối diện với tội lỗi? Bạn đã muốn tránh giây phút ấy nhưng không tránh được? Bạn đã phản ứng như thế nào? Giả vờ như không biết, kêu oan, tìm cách hại người đã tố cáo mình hoặc hại nhân chứng của tội lỗi mình? Bạn đã từng dùng sự khôn ngoan của mình để tránh đối diện với tội lỗi của chính mình? Bạn đã và đang mang bao nhiêu bí mật tội lỗi trong đời?

Vị minh vương David lập tức nhìn nhận tội lỗi, không chối, không đổ thừa cho hoàn cảnh, không một lời biện minh và xin sự thông cảm. “Tôi đã phạm tội cùng Đức Jehovah.” Minh vương David, người sống đẹp lòng Đức Chúa Trời đến độ Ngài đặt David lên ngôi vua Do-Thái, thay thế cho vị vua trước ông, đã thành thật ăn năn, than khóc cho tội lỗi mình. Trong toàn nước Do Thái, ta sẽ tìm được ai văn võ song toàn như David, vừa là một chiến sĩ lẫy lừng, một anh hùng cái thế, vừa là thi sĩ, nhạc sĩ đại tài, đã sáng tác rất nhiều bài nhạc và thơ còn được ghi lại muôn đời trong Kinh Thánh. Và trong những giòng thơ ấy là tâm sự não nùng của người biết mình đã phạm tội trọng với Chúa. “Đức Chúa Trời của con ơi, tội lỗi con hằng ở trước mặt con.” “Chúa đặt gian ác chúng con trước mặt Chúa, để những tội lỗi kín đáo của chúng con trước mặt Chúa...Bởi cơn giận của Chúa, các ngày của chúng con đều qua đi...” “Đức Chúa Trời ơi, Chúa biết sự ngu dại của con. Các tội lỗi con không giấu Chúa được.”

Vì một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, bạn đã phải chịu cảnh không được tắm trong bao lâu? Một tuần, hai tuần? Một tháng, hai tháng? Một quân nhân người Mỹ đang đóng quân tại Trung Hoa trong cuộc thế chiến thứ nhì, khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Hoa, các toán quân Mỹ đang có mặt tại Trung quốc phải buông súng đầu hàng Nhật Bản. Tù binh Mỹ này ghi lại chuyện anh bị hành hại trong tay người Nhật, hết trại giam này đến trại giam khác và phải chịu cảnh không được tắm gần một năm. Anh diễn tả và ghi lại xúc cảm được tắm nước nóng lần đầu vào một ngày đông tuyết giá trên đất Trung Hoa, anh tưởng mình như được lạc chốn thiên thai, cứ cố nằm mãi trong thùng nước nóng mà trước đó đã có hàng trăm người tắm trong đó, cho đến khi lính canh lên cò súng, anh mới chịu bước ra. Bạn từng có xúc cảm đó bao giờ chưa?

Bạn ơi, nhưng nước làm sao rửa được vết nhơ của tâm hồn. Bạn đã sống với những vết nhơ của linh hồn bao năm rồi ? Bạn đã dùng những cách nào để rửa vết nhơ của tội mình?  Bạn có hiểu được hạnh phúc của người được rửa sạch mọi vết nhơ lòng ? David đã ghi lại kinh nghiệm được sự tha thứ của Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời ơi, lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dễ đâu.” Từ ngàn xưa Chúa đã hứa với con người “Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau. Dầu tội các con đỏ như hồng điều, sẽ trở nên  trắng như tuyết, dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên...” David đã nhận tội và chỉ cầu xin sự thương xót của Đức Chúa Trời nên đã nhận được điều Ngài đã hứa.

Bạn có tin rằng mùa xuân sẽ mãi mãi ở trên quả địa cầu? Bạn có tin rằng mùa xuân sẽ mãi mãi ở trong cuộc đời của bạn? Vì Đức Chúa Trời của bạn, Đấng được gọi là Chân - Thiện - Mỹ đã yêu thương và tha thứ cho bạn khi bạn ăn năn, thì bạn là người có phước nhất trên toàn quả đia cầu. Hãy nhìn vào kẻ sát nhân David, vì đã ăn năn, nên “dù tội con đỏ như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết, dù đỏ như son, sẽ trờ nên trắng như lông chiên.” Sự tha thứ của Đức Chúa Trời dành cho tội nhân ăn năn vượt trên sự hiểu biết và tưởng tượng của loài người. Ai đo được sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời? Ai đo được chiều sâu của lòng Ngài yêu thương nhân thế, những con chiên của Ngài? Ai đo được chiều sâu của sự tha thứ của Đức Chúa Trời?

Nói thì dễ nhưng đưa ra bằng chứng thì khó phải không ? Bạn muốn biết bằng chứng của sự tha thứ này ? Bạn có biết không, Chúa Cứu Thế Jesus vào đời – Đức Chúa Trời thành người, bước vào trong thế giới của con người chúng ta, mang thân xác con người như chúng ta, để chết đền tội cho chúng ta - theo dòng dõi của David, Ngài được gọi là con cháu của David. Bạn sẽ hỏi David nào? Phải, David kẻ sát nhân không? Phải, David kẻ sát nhân, người đã viết lá độc thư cũng là người đã ăn năn, và đã được tha tội, và đã được xem trắng án trước mặt Đức Chúa Trời. Hàng triệu hàng tỷ người trên quả địa cầu được gọi là Cơ Đốc Nhân, con của Đức Chúa Trời, họ thuộc dòng dõi người công bình, dòng dõi của Chúa Cứu Thế, và Chúa chúng ta được kể vào dòng dõi của David. Bạn cảm thấy vui mừng hay ái ngại về điều này?  Mùa xuân sẽ mãi mãi ở trên quả địa cầu, mãi mãi ở trong đời những người biết ăn năn tội và tìm cầu sự tha thứ của Chúa.

Chuyện người ngay bị kẻ gian hãm hại là chuyện bình thường trong thế giới của con người. Nhưng sau khi tòa án đã xử rồi, kẻ hại người và nạn nhân lại cùng nhau chung sống bình an, hạnh phúc ấm êm trong một mái nhà là chuyện không bao giờ có trong thế giới con người. Vậy mà bạn có biết không, người đưa thư cùng chung sống nơi thiên đàng vinh hiển tuyệt vời với người đã viết độc thư. Uriah và David cùng chung hưởng sự sống đời đời trong ánh sáng và trong sự tha thứ của Đức Chúa Trời.

Đoàn Thu Cúc